RONG MƠ
Tên khoa học:
Sargassum henslowianum J.Agardh.; Họ Rong
mơ (Sargassaceae).
Tên khác:
Rong biển, rau mã vĩ, hải tảo.
Tên nước ngoài:
Sargasse (Pháp).
Đặc điểm thực vật (Mô tả):
Loại tảo cấu tạo bởi những sợi phân nhánh, nom như
thân, hình trụ tròn hoặc hơi dẹt, nhẵn hoặc có gai rất nhỏ, màu đỏ nâu hay nâu
đen. Những sợi này mang những bộ phận mỏng, giẹp, nom như lá có một gân, mép
nguyên hoặc khía răng không đều, trên mặt có những chấm đen, rải rác từng quãng
có những bộ phận giống như quả mọc ở kẽ lá, thực ra là những cái phao hình tròn
hoặc bầu dục trong chứa đầy không khí (túi khí) để rong mọc đứng trong nước biển.
Phao hình cầu hay hình bầu dục màu đỏ nâu đến nâu đen.
Cơ quan sinh sản hình trụ tròn hoặc hình lăng trụ,
nhẵn hoặc có gai, nguyên hoặc chia nhánh, thường mọc thành chùm. Trên cơ quan
sinh sản, có thể có lá hoặc túi khí.
Nhiều loài khác cũng được sử dụng như rong mơ lá mềm
(Sargassum tenenium), rong mơ liềm (S. hemiphyỉlum), rong mơ nhánh bò (S. polycystum J. Ag.), rong mơ Vachel (S. vachel liuanum), rong mơ Svaczi (S.
swartzii), S. congkinhii P.
Hoàng, S. crassifolium J. Ag., S. kjellmanianum Yendo, S. meclurei Setchell, S. microcystum Lhg.
Phân bố, sinh thái
Chi rong mơ có gần 30 loài ở Việt Nam, phân bố rải
rác ở các vùng biển và xung quanh đảo. Cây rong mơ thường thấy ỏ các vùng biển
nhiệt đới, cận nhiệt đới, từ Nhật bản đến Philippin.
Ở Việt Nam, rong mơ phân bố nhiều ngoài khơi thuộc tỉnh
Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An, Phú Yên và Khánh Hòa. Rong mơ thường
phân nhánh nhiều, tạo thành những đám lớn bám trên đá. Do cấu tạo có những túi
khí ở thân và cành, nên toàn bộ cơ thể tảo mặc dù ở trong nưóc biển vẫn có xu
thế hướng lên trên; khi bị sóng biển làm gãy thường trôi dạt vào bờ.
Nguồn rong mơ ỏ biển Việt Nam rất phong phú. Cây đã
từng được khai thác để sản xuất tốt ở Bình Định, Đà Nẵng và Hải Phòng.
Bộ phận dùng:
Rong mơ thu hái vào mùa hạ, thu. Dược liệu có dạng
trụ tròn hoặc hơi dẹt, nhẵn hoặc có gai. Từ các nhánh, mọc ra nhiều phiến mỏng,
mép nguyên hoặc có răng cưa. Rong có túi gọi là phao, hình tròn hoặc bầu dục nằm
ỏ chỗ lản phân nhánh.
Sau khi thu hái, rong mơ phải được rửa bằng nước ngọt
để loại muối và các tạp chất, rồi đem phơi hoặc sấy khô ở nhiệt độ thấp.
Thành phần
hóa học:
Rong mơ chứa iod, acid alginic, alginat, chất béo đường,
Ca phosphat, sắt... và là nguyên liệu chứa nhiều iod: 45,3 mg% - 6 mg% có ứng dụng
trong điều trị bướu cổ.
Trần Vãn Ân (1982) nghiên cứu 6 loài trong chi Sargassum ở Hòn Chồng (Nhà Trang) và xác
định hàm lượng acid alginic như sau:
1. S.
congkinhii p. Hoàng 20,26% ± 0,30
2. S.
crassifolium J. Ag. 31,14% ± 0,25
3. S.
kjellmanianum Yendo 31,00% ± 0,68
4. S. meclurei
Setchell 32,82 ±0,18
5. S.
microcystum J. Ag. 24,86 ± 0,95
6. S. poỉycystum
J. Ag. 20,16 + 0,21
Loài rong mơ S.
kjellmanianum có 3,4 - dideoxyglucoson - 3 - en. Chất này có tính chất suy
giảm miễn dịch.
Polysaccharid trong loài này đem phân đoạn bằng sắc
ký cột trao đổi ion cho phân đoạn chứa galactofucan đã được sulfat hóa có hoạt
tính mạnh nhất so với các phân đoạn khác đối với u báng sarcom - 180 đã được cấy
vào hốc hoành cách mô chuột nhắt.
Ngoài ra còn có phorsotanin có tác dụng chống oxy
hóa mạnh gấp 2,6 lần so với BHT (teit butyl - 4 - hydroxytoluen) 0,02%, điều
này gợi ý cho việc dự phòng chống sự ôi khét dầu mỡ.
Tác dụng dược lý:
Hoạt chất natri alginat và các thành phân đa đường
chiết từ rong mơ đã được nghiên cứu như sau:
1. Ảnh hưởng đối với công năng thực bào của các đại thực bào (macrophage):
Thí nghiệm trên chuột nhắt trắng có thể trọng 18 - 22 g,
tổ dùng thuốc: tiêm natri alginat bằng đưòng xoang bụng với liều 100 mg/kg, tổ
đối chứng tiêm nước muối sinh lý, trong 7 ngày liên tiếp. Kết quả ở tổ dùng
natri alginat chức năng thực bào của các đại thực bào trong xoang bụng tăng
cao, so với đối chứng tỷ lệ tăng đạt 1,43 lần.
2. Tác dụng đối với chuyển dạng tể bào lympho:
Lấy
máu chống đông bằng heparin của người bình thường 0,2 ml cho vào ống nghiệm đã
có dung dịch nuôi 2ml, chia làm 4 lô: đối chứng, dùng PHA, dùng natri alginat
và dùng natri alginat cộng với PHA, rồi cho vào mỗi ống nghiệm - TdR hoặc - UR,
tiến hành đếm và tính hộ số kích thích (SI) - kết quả cho thấy so với đối chứng,
natri alginat có tác dụng thúc đẩy - TdR hoặc - UR xâm nhập vào tế bào lympho,
nhưng so với PHA thì kém. Trong thí nghiệm với - TdR, natri alginat và PHA có
tác dụng đối kháng nhau, còn trong thí nghiệm với - UR, natri alginat và PHA lại
có tác dụng phối hợp. Trị SI của 4 lô trên như sau: 1,000; 3,827; 1,514; 1,840.
3. Ảnh hưởng đối với tế bào bạch cầu:
Dùng chuột nhắt
trắng giống Côn Minh có thể trọng 18-22 g; chia làm 3 nhóm: đối chứng dùng nước
muối sinh lý, nhóm dùng cyclophosphamid, nhóm dùng thuốc với cyclophosphamid.
Nhóm dùng thuốc tiêm xoang bụng natri alginat với liều 100 mg/kg liên tục trong
8 ngày, đến ngày thứ 7 trừ nhóm dùng nước muối sinh lý, các tổ còn lại tiêm
xoang bụng cyclophosphamid với liều 2 mg/0,4 ml. Ngày thứ 9 kiểm tra số lượng tế
bào bạch cầu của chuột, kết quả natii alginat có tác dụng đối kháng với hiện tượng
giảm tế bào bạch cầu do cyclophosphamid gây nên, tỷ lệ đối kháng đạt 54,35%
(P< 0,001).
4. Tác dụng đối với ảnh hưởng do chiếu xạ Co g gây nên:
Dùng chuột nhắt trắng có thể trọng 18 - 22 g, gồm 40 chuột, chia làm 2 tổ,
tổ dùng thuốc, tiêm xoang bụng alginat với liều 100 mg/kg liên tục trong 7
ngày, đến ngày thứ 8 chiếu xạ Co g trong vòng 23 phút với tổng liều 0,206 c/kg. Quan sát
trong vòng 30 ngày. Kết quả natri alginat có tác dụng bảo vệ chuột đối với các
tổn thương do chiếu xạ Co gây nên, làm giảm tỷ lệ tử vong của chuột và kéo dài thời
gian sinh sống.
5. Tác dụng làm giảm cholesterol huyết:
Thí nghiệm
trên chuột nhắt trắng có thể trọng 20 - 22g, gồm 20 chuột, chia làm 2 tổ, tổ
dùng thuốc: tiêm xoang bụng 100 mg/kg natri alginat, liên tục trong 7 ngày,
ngày thứ 6 tiêm xoang bụng nhũ dịch lòng đỏ trứng 75% - 0,5 ml. Sau 20 giờ lấy
mẫu xác định hàm lượng cholesterol trong huyết thanh. Kết quả hàm lượng
cholesterol huyết ở tổ đối chứng là 490,11 ± 56,23 mg/100 ml và ở lô dùng thuốc
là 311,21 ± 30,87 mg/kg tỷ lệ giảm cholesterol đạt 36,50% (P < 0,001). Điều
này chứng tỏ natri alginat có tác dụng làm giảm lượng cholesterol huyết một
cách rõ rệt.
6. Tác dụng chống khối u:
Tiêm chủng tế bào S180
cho chuột nhắt trắng có thể trọng 18 - 22g. Sang ngày thứ 2, tổ dùng thuốc trên
xoang bụng natri alginat với liều 200 mg/kg, tổ đối chứng dùng nước muối sinh
lý liên tục trong 9 ngày liền. Sau đó giết chuột, kiểm tra kết quả cho thấy khối
u trung bình ở tổ đối chứng là 1,807 ± 0,47 g, còn ở tổ dùng thuốc là 1,15 ±
0,140 g, tỷ lệ ức chế khối u đạt 36,30% so với tổ đối chứng (P < 0,001).
7. Tác dụng kháng độc tố botulin:
Tác dụng này được
biểu hiện bằng tỷ lệ sống của chuột đã bị nhiễm độc, kết quả tỷ lệ đó ở các lô
đã dùng các thành phần đa đường A, B, C từ rong mơ với lô đối chứng là 6/10,
9/10, 3/10 và 0/10.
8. Các tác dụng khác:
Thành phần đa đường từ rong mơ
còn có tác dụng ức chế virus Simplex
herpes. Ngoài ra, rong mơ còn có tác dụng ức chế Bacillus subtilis.
Độc tính: Thí nghiệm trên chuột nhắt trắng, bằng
đưòng tiêm xoang bụng, natri alginat có LD50 =1013 ± 30,8 mg/kg.
Tính vị, công năng:
Rong mơ có vị đắng, mặn, tính hàn, vào các kinh: phế,
tỳ, thận, có tác dụng nhuyễn kiên (làm mềm u rắn), tiêu đờm, lợi thủy, tiết nhiệt,
tác dụng ngược vói cam thảo.
Công dụng:
Hiện nay, trong y học hiện đại, người ta dùng rong
mơ chữa bướu cổ, dưới dạng viên có tên gọi iotamin chứa 50 - 70 microgram iốt.
Ngày dùng 2-4 viên trong vòng 3-5 tháng.
Trong y học cổ truyền, rong mơ từ lâu đã được sử dùng
làm thuốc chữa tràng nhạc (loa lịch), u bướu (anh lưu), thủy thũng, cước khí,
tinh hoàn sưng đau. Liều dùng hàng ngày 6 - 15 g. Dùng riêng hoặc phối hợp với
các vị thuốc khác, dưới dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán.
Ngoài ra, rong mơ còn là nguồn nguyên liệu để chiết
alginat dùng trong công nghiệp hồ vải sợi.
Chú ý: Ngưòi tỳ vị hư hàn, có thấp trệ không dùng.
Bài thuốc có rong mơ:
1. Chữa bệnh tràng nhạc, lở loét:
Rong mơ 2 phần, sao giòn với thóc rồi bỏ thóc, tán bột;
tằm vôi 1 phần (sao giòn), tán bột; quả mơ muối rửa nước sôi, bỏ hạt; lấy thịt
giã nát trộn với bột trên làm viên bằng hạt đậu xanh. Ngày uống 3 - 6 lần mỗi lần
5 - 6 viên với nước cơm, kiêng ăn đậu, gà, dê và uống rượu (Nam dược thần hiệu).
2. Chữa u giáp trạng lành tính:
Rong mơ 15 g, côn bố 15 g, hải phù thạch 30 g, kim
ngân hoa 15 g, thủy hồng hoa tử 15 g, đông qua bì 30 g. Sắc nước uống ngày một
thang (Bắc Kinh - Trung Quốc).
3. Chữa lao hạch:
Rong mơ, thổ bối mẫu, hương phụ, hạ khô thảo, mỗi vị
9 g. Sắc nước uống.
4. Chữa ung thư thực quản và trực tràng:
Rong mơ 30 g, thủy tức 6 g. Nghiền thành bột, mỗi lần
uống 6 g với rượu, ngày 3 lần.
5. Chữa phì đại tuyến tiền liệt gây bí đái ở người già:
Rong mơ, côn bố, xuyên sơn giáp, mỗi vị 10 g; lệ chi
hạch, quất hạch, vương bất lưu hành, mỗi vị 15 g. Sắc nước uống.
6. Chữa cao huyết áp:
Rong mơ, côn bố, hạ khô thảo, mộc thông, mỗi vị 30
g; hà tử, bạc hà mỗi vị 15 g; hạnh nhân 6 g. Nghiền thành bột luyện với mật làm
hoàn, mỗi lần uống 3 g, ngày 3 lần (Thanh đảo trung thảo dược thủ sách - TrungQuốc).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Viện Dược liệu (2004), “Cây thuốc và động vật làm
thuốc Việt Nam”, tập II, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật
0 Comment:
Post a Comment