RIỂNG NẾP
Tên khoa học:
Alpinia galanga (L.) Willd.; Họ Gừng
(Zingiberaceae).
Tên đồng nghĩa:
Languas galanga (L.)
Stuntz, Alpinia pyramidata Blume
Tên khác:
Riềng ấm, hậu khá (Thái), chi bộ (H'Mông).
Tên nước ngoài:
Greater galangal (Anh), grand galanga (Pháp).
Đặc điểm thực vật (Mô tả):
Cây thảo, cao khoảng 2 m hoặc hơn. Thân rễ to, đường
kính 2 - 3 cm, màu hồng nhạt. Lá mọc so le, xếp thành hai dãy đều, hình mũi
mác, dài 35 - 40 cm, rộng 5-7 cm, gốc thót lại, đầu thuôn nhọn, mép có viền trắng,
hai mặt nhẵn, mặt trên bóng; cuống lá hầu như không có, lưỡi bẹ tròn, nguyên.
Cụm hoa mọc ở ngọn thân thành chùy phân rất nhiều
nhánh; lá bắc hình mác dễ rụng, lá bắc con hình dải; hoa màu trắng có vạch hồng;
dài hình ống, có 3 răng; tràng hình ống, có cánh lõm, cánh môi hình dải-trái
xoan, có móng hẹp, chia 2 thùy ở đầu; nhị lép hình giùi; bầu có lông.
Quả mọng, hình cầu, khi chín màu đỏ nâu, chứa 3-5 hạt
bóng.
Mùa hoa quả: tháng 5-7.
Phân bố, sinh thái:
Riềng nếp phân bố rải rác ở một số vùng thuộc Ấn Độ,
Trung Quốc và Lào. Ở Việt Nam, cây vừa mọc tự nhiên, vừa được trồng. Riềng nếp
mọc tự nhiên nhiều nhất ở các tỉnh Lai Châu (Tuần Giáo, Điện Biên, Tủa Chùa);
Sơn La (Mường La, Sông Mã); Lào Cai (Văn Bàn, Than Uyên); Hòa Bình (Mai Châu).
Cây cũng phân bố ở một số tỉnh vùng núi khác ở miền Bắc và có thể ở cả Tây
Nguyên.
Riềng nếp là cây đặc biệt ưa ẩm, có thể hơi chịu
bóng; thường mọc rải rác ở kiểu rừng kín thường xanh ẩm, nhất là dọc theo các bờ
suối, ven rừng hoặc rừng thưa trong thung lũng. Độ cao phổ biến từ 300 đến 600
m hoặc hơn.
Cây sinh trưởng phát triển mạnh trong mùa hè - thu;
cuối mùa thu bắt đầu có hoa quả; gieo giống tự nhiên bằng hạt. Riềng nếp có khả
năng đẻ nhánh nhiều từ thân rễ. Số nhánh mọc ra hàng năm thường tăng theo cấp số
nhân. Hoa quả chỉ xuất hiện trên các nhánh đã được khoảng một năm tuổi; những
nhánh thân đã ra hoa quả sẽ dần tàn lụi trong vòng một năm.
Nguồn riềng nếp mọc tự nhiên ở Việt nam tương đối
phong phú. Vào khoảng từ 1996 - 1998, cây bị khai thác nhiều. Chỉ tính riêng ở
huyện Tuần Giáo tỉnh Lai Châu, trong năm 1997 đã xuất khẩu qua biên giới vài chục
tấn riềng tươi.
Bộ phận dùng:
Thân rễ thu hái vào mùa xuân.
Quả chín thu hái vào mùa thu, phơi khô (Fructus
Galangae).
Thành phần hóa học:
Quả riềng nếp chứa các chất 1'-acetoxychavicol
acetat (I) và 1'-acetoxy eugenol acetat (I) và II có hoạt tính chống viêm.
Hạt chứa các chất flavonoid được xác định là
quercetin, kaempferol, quercetin 3 methyl ester, isorhamnetin, kaempfrid, galangin
và dẫn chất 3 methylether của galangin (Planta Med. 1972, 22, 145); 1'-acetoxychavicol
acetat (I) và 1'acetoxy eugenol acetat (II) cùng với caryophylen oxid,
caryophylenol, pentadecan, 7 heptadecen (Chem pharm Bull. 1976, 24, 2377)
2 chất diterpen có tác dụng chống nấm và tác dụng độc
với tế bào (cytotoxic) có tên là galanan A và galanan B cùng với 3 chất
diterpen loại labdan có tên là galanolacton (III), (E) 8β (17) 12 - labdinen -
15 - 16 dial (IV) và (E) 8 - β (17) epoxylabd - 12 en - 15, 16 dial (V) cũng được
tách từ hạt và xác định cấu trúc.
Rễ và lá chứa tinh dầu với thành phần chính là
myrcen 94,51% ở rễ và 52,34% ở lá (J Essentoil 1992, 4,81). Mori Kikedi, Kubota
Kikue đã tách từ rễ riềng nếp 16 hợp chất chứa oxy đã được xác định là 1’acetoxy
chavicol acetat; 1,8 cineol, linalool; geranyl acetat, eugenol, chovicol
acetat. Ngoài ra còn bornyl acetat, citronellyl acetat, 2 acetoxy 1-8 cineol,
methyl eugenol, tinh dầu có 1 - 8 cineol và các hợp chất phenolic cao có ảnh hưởng
lớn đến mùi thơm của tinh dầu. Rễ riềng nếp còn chứa các men ức chế xanthin
oxydase (inhibitors of xanthine oxydase) gồm trán - p - coumarin diacetat; trans
coniferyl diacetat [1' S] - 1’ - acetochavicol acetat; [1’ S] 1 - acetoxy
eugenol acetat và 4 hydroxy benzaldehyd.
Một số hợp chất có tác dụng chống u (antitamor) cũng
được phân lập từ riềng nếp, các hợp chất (VI) đồng phân 15 α và 15 β) và VII đã
được sử dụng như là chất chống u.
Chất diterpen có tác dụng kháng khuẩn từ riềng nếp
là (E) - 8β - 17 epoxylabd - 12 en, 15, 16 dial, chất này còn làm tăng hoạt
tính chống nấm Candida ambicans của
quercetin và chalcon.
Tác dụng dược lý:
Trong thử nghiệm in vitro và in vivo, tinh dầu từ
thân rễ riềng nếp tươi và khô đều biểu lộ hoạt tính kháng khuẩn, kháng nấm,
kháng động vật nguyên sinh, trừ sâu và long đờm mạnh. Cao nước, cồn hoặc ether
thân rễ có hoạt tính kháng khuẩn mạnh trên Bacillus
subtilis, Escherichia coli. Staphylococcus aureus. Streptococcus hemolyticus và Pseudomonas aeruginosa. Cao cồn và
cloroform có hoạt tính kháng nấm trên Candida
albicans, Cryptococcus neoformans,
Epidermophyton floccosum, Microsporum gypseum, Trichophyton rubrum và Saccharomyces sp. Cao ether ức chế Klebsiella pneumoniae. 1'-
Acetoxychavicol acetat có tác dụng kháng nấm trên Trichophyton mentagrophytes, T.
concentricum, T. rubrum, Aspergillus niger, Penicillium expansum và Rhizopus
stolonifer, với nồng độ ức chế thấp nhất là 50 - 250 µ.g/ml. Tinh dầu từ
thân rễ có hoạt tính kìm trực khuẩn lao với nồng độ 25 µg/ml. LD50 của
tinh dầu tiêm phúc mạc chuột lang là 0,68 ml/kg.
Cao thân rễ riềng nếp (0,01 - 0,10%) cho vào thịt bò
sống xay làm tăng tính ổn định về oxy hóa, nồng độ cao còn làm tăng thời hạn sử
dụng của thịt bò xay. Hoạt chất 1’- acetoxychavicol acetat có tác dụng chống
ung thư mạnh in vitro và in vivo, chống u báng Sarcoma 180 ở chuột nhắt trắng, ức
chế phát triển u ruột kết gây bởi azoxymethan ở tế bào người, và ức chế sự gây
ung thư nội sinh gan chuột cống trắng. Những hoạt chất khác có khả năng chống
ung thư là 1’ - acetoxy - eugenol acetat, ethyl trans - cinnamat và ethyl 4 -
methoxy - trans - cinnamat. Cao methanol thân rễ ức chế mạnh tác dụng gây đột
biến của 3 - amino - 1,4 - dimethyl - 5H pyrido [4,3 - β] indol ở Salmonella typhimurium TA 98.
Cao ethanol thân rễ cho uống với liều 500 mg/kg và
các dẫn chất chavicol tiêm phúc mạc với liều 1 - 10mg/kg có hoạt tính chống
loét dạ dày gây bởi thắt môn vị và ức chế sự tiết dịch vị ở chuột cống trắng và
có hoạt tính bảo vệ tế bào. Bột thân rễ có hoạt tính ở mức trung bình ức chế sự
tạo sỏi niệu oxalat ở chuột cống đực. Trong thử nghiệm về độc tính uống cấp
tính (24 giờ) với liều 0,5-3 g/kg, và độc tính mạn tính (90 ngày) với liều 100
mg/kg/ngày trên chuột nhắt trắng, cao ethanol đã có hoạt tính làm tăng thể trọng,
tăng lượng hồng cầu, tăng trọng lượng các cơ quan sinh dục, tăng sự di động và
số lượng tinh trùng so với chuột đối chứng, và không có tác dụng độc với tinh
trùng. Trong thử nghiệm in vitro, cao thân rễ có tác dụng ổn định màng hồng cầu
cừu chống lại tác động của môi trường nhược trương và nhiệt. Màng hồng cầu giống
màng thể tiêu bào; các glucocorticoid và thuốc tương tự aspirin có tác dụng ổn
định thể tiêu bào, tác dụng này là một trong những cơ chế chủ yếu chống viêm.
Tính vị, công năng:
Riềng nếp có vị cay, tính ôn, vào hai kinh tỳ và vị,
có tầc dụng ôn trung, tán hàn, hết đau, tiêu thực.
Công dụng:
Riềng nếp được dùng như riềng ấm chữa đau bụng, tiêu
chảy, nôn mửa, lỵ và phối hợp với than tóc rối uống chữa ngộ độc thịt cóc. Riềng
nếp muối dùng một nhúm ngậm, cắn nhẹ và nuốt dần dần làm khỏi khát, đỡ mệt khi
làm việc mệt nhọc hoặc đi nắng nhiều khát nước.
Thân rễ riềng nếp được ghi trong được điển nhiều nước
châu Âu, và được dùng rộng rãi trong y học cổ truyền trị bệnh da, bệnh hô hấp,
làm thuốc lợi tiêu hóa sau khi đẻ, khó tiêu, đầy hơi, cơn đau bụng, lỵ, ung thư
miệng và dạ dày, nhiễm khuẩn toàn thân, bệnh dịch tả và làm thuốc long đờm. Ở
Trung Quốc, Lào và Campuchia, thân rễ được uống chống co giật, gây trung tiện
và long đờm, trị lỵ, trị viêm phế quản, và dùng ngoài trị thấp khớp, ở Thái
lan, thân rễ được dùng trị nhiều bệnh, làm thuốc lọc máu, trị khó tiêu, dụng dập,
tiêu chảy, nhiễm khuẩn uốn ván, sốt rét mạn tính, bệnh tê phù, ghẻ cóc, đau dạ
dày, bệnh dịch tả, ngứa, nấm da, bệnh da, chốc lở, mày đay, đau răng, trị giun,
chống co thắt, gây trung tiện, đầy hơi.
Ở Philippin, thân rễ được dùng gây trung tiện, kích
thích, và nước sắc lá dùng làm nước tắm tậ thấp khớp, ở Indonesia, thân rễ nạo
nhỏ trộn với ít muối uống lúc đói tri lách to, và nước ngâm thân rễ uống trị bệnh
phong, ở Malaysia, hạt được dùng trị cơn đau bụng, tiêu chảy, nôn và bệnh
herpes, nước hãm lá dùng cho phụ nữ uống sau khi đẻ. Trong y học dân gian Ấn Độ,
thân rễ dùng tn đầy hơi, khó tiêu, thấp khớp và bệnh viêm xổ, đặc biệt trong
viêm xổ phế quản, và cùng với hồ tiêu và gừng trị sốt. Cao lá dùng bôi trị ngứa
và bệnh dị ứng da. Thân rễ riềng nếp là thuốc kích dục của người Ả Rập, chữa sỏi
thận ở Ả Rập Xê Út, phối hợp với 3 dược liệu khác chữa viêm khớp dạng thấp ở Cô
Oét.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Viện Dược liệu (2004), “Cây thuốc và động vật làm
thuốc Việt Nam”, tập II, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật
0 Comment:
Post a Comment