Search This Blog

QUỐC VĂN CHU DỊCH DIỄN GIẢI (PHAN BỘI CHÂU TOÀN TẬP)

TẬP 9. QUỐC VĂN CHU DỊCH DIỄN GIẢI (PHAN BỘI CHÂU TOÀN TẬP)

NHÀ XUẤT BẢN THUẬN HÓA
TRUNG TÂM VĂN HÓA NGÔN NGỮ ĐÔNG TÂY

QUỐC VĂN CHU DỊCH DIỄN GIẢI (PHAN BỘI CHÂU TOÀN TẬP)

LỜI GIỚI THIU

Từ Âu học tràn khắp phương Đông, học giả phương Đống say mê theo ngọn triều Âu hoá.
Nói đến triết học thời kể những Bá Lạp Đo (Platon), Khang Đức (Emmanuel Kant), Tô Cách Lạp Đề (Socrate), v.v... nay dẫn sách này, mai diễn thuyết nọ, mà bao nhiêu triết học sẵn có ờ bên phương Đông ta, xem như một vật trong Viện Tàng cổ, mà không ai nhắc đến.
Gần đây, các nhà học giả Âu Tây, khảo sát văn hoá phương Đông, nhiều người tỏ lòng sùng bái, tìm sách xưa mà dịch ra đ thu nhập tư tưng cho học gi Âu Tây.
Xem bài Ký yết Khổng miếu của bác sĩ Ô Lư, người Pháp, thời rõ người Tây yêu chuộng triết học Đòng phương là dường nào. (Bài này nguyên Pháp văn, báo Nam Phong s83 có dch đăng).
Ký giả có một người bạn tinh thâm Hán học, trên hai mươi năm du lịch nước Nhật và nước Tàu, cùng học giả Đông Tây giao thiệp cũng nhiều, nay tuổi đã già không muốn chen minh vào trong cuộc đời đáng chán này, xoay lại đóng cửa đọc sách, làm bạn cùng mấy bậc danh triết đời       xưa. Trong lúc thong thả, nhàn đem bản Chu Dịch dịch ra quốc văn, lấy tư tưởng cao thượng dung hợp mà giải thích theo lối vũ trụ quan, nhân sanh quan phát triển được nhiêu tinh diệu, và thích hợp với lẽ tiến hoá.
Thuở nay nhiều người xem bộ Chu Dịch như một thứ sách chỉ dừng về việc bói, việc s, đã không ích cho đời, mà lại dẫn người đời vào cõi mê tín. Nay có bản sách này, không khác gì dọn gai gốc mà thấy đường bang, vén mây mù mà thấy mặt trời, làm cho chăn tướng triết học cùa Thánh hiền Đông phương bị che lấp mấy trăm đời, nay được bày tỏ một cách sáng suốt, giá tr cùa bản sách này không phi là ít.
Toàn bản Chu Dịch Quốc văn này cá mười quyển nhỏ, dầu từ quẻ Càn, sau đến quẻ Vị Tế, gồm sáu mươi       bốn quẻ, Hào từ, Tượng, Soán, đều có giải nghĩa, mà bình luận một cách rõ ràng.
Hiện xã hội ta ngày nay, đi với Hán học có chiều lãnh đạm, nhất là triết học cao sáu thâm thuý như bản Chu Dịch này, lại cũng ít người muốn xem; mà có lẽ củng ít hiểu nữa. Vì thế, nên chưa dám in vội.
Tuy vậy, ngọc ở trong đá, vàng ở dưới bùn, dầu là ít người thưởng thức đến, song cái giá trị quý báu của nó không vì cái có che lấp y mà tiêu mòn, mà hai mươi triệu con Hồng cháu Lạc này há lại không có người có cái ý tưởng đối với triết học phương Đông ta, mà tỏ lòng muôn bảo tân và phát triển ra hay sao ?
Kí giả nghĩ thế, nên trước hết viết mấy lời tỏ càng đồng bào ta biết nhà Hán học ta có người học được thăm thuý, đủ tri thức mà phát triển được những học thuyết của Thánh triết xưa, để công hiến cho kê hậu học, sau xin đăng bài Tựa của người làm bản sách Chu Dịch Quốc văn ấy. Độc giả nếm một miếng cũng đủ biết mùi toàn đỉnh, còn sự ấn hành xin đợi ngày khác.
MINH VIÊN

VỀ VĂN BẢN TÁC PHẨM QUỐC VĂN CHU DỊCH DIỀN GII

Đây là một công trình biên khảo khá đồ sộ và có giá trị ln của Phan Bội Châu trong những năm cuối đời, khi Cụ sống ở Bến Ngự (Huế). Phan Bội Châu thật đã không b phí một khoảnh khắc thời gian nào của cánh sông "vò liêu" lúc bấy giờ để sống một cách có ích nhốt. Nhu là một học giả uyên bác, một nhà tư tưởng tầm cỡ của thi đại, Cụ đã đồn hết sức lực và tâm huyết để nghiên cứu thêm, giải thích lại một số thành tựu vĩ đại của văn hóa phương Đông dành cho các thê hệ con cháu mai sau:
- Bộ Kinh Dịch (Quốc văn Chu Dịch diễn giải).
- Học thuyết của Khổng Tử (Khổng học đăng).
- Tư tưởng triết học Phật giáo (Phật học đăng) v.v...
Cụ nghiên cứu Kinh Dịch và hoàn thành việc biên khảo hộ sách này vi hơn 1.000 trang bản thảo, rồi cho chép tay làm 3 bàn "chữ quổc ngữ", mỗi bản chép trên khoảng 30 quyn vở giấy học sinh loại 48 trang (giấy kẻ ngang khổ 15 x 22 cm). Những bộ bn thảo "gốc" này giao cho người thân của Cụ cất giữ. Sau dó, cuối năm 1937 trên một mặt báo Tiếng Dân (số phụ trương Chủ nhật), cụ Huỳnh Thúc Kháng đã có bài gii thiệu, "quảng cáo" v bộ sách này: "... trước hết viết mấy li tỏ cùng đồng bào ta, biết nhà Hán học ta có người học dược thâm thúy, đủ trí thức mà phát triển được những học thuyết của Thánh triết xưa, để cống hiến cho kẻ hậu học, sau xin dăng bài Tựa của người làm bản sách Chu Dịch Quốc văn ấy. Độc giả nếm một miếng cũng đủ biết mùi toàn đỉnh, còn sự ấn hành xin đợi ngày khác". Nhưng rồi bộ sách này cũng không có điều kiện xuất bản khi Cụ Phan còn sống.
Năm 1943, trong Nam, xuất bàn cuốn sách của Phan Văn Hùm nhan đề Vương Dương Minh, người ta đọc thấy, lần đầu tiên có trích dẫn một số đoạn của bộ Quốc văn Chu Dịch diễn giải. Có chỗ tác già chép lại cả một mục đề "Vương học Nhật Bán" rút từ bộ sách trên đ thuyết minh cho luận điểm của mình. Không rõ Phan Văn Hùm có gi một "bn tho gốc" nào của bộ Quốc văn Chu Dịch diễn giải và đến nay bản ấy có còn nữa không?
Nhưng toàn văn bản tho của bộ sách này thì mãi đến năm 1967, nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Phan Bội Châu, chúng tôi mi phát hiện được một phần: 16 tập trong tổng số 30 tập tại kho lưu trữ tư liệu của Ti Văn hóa Nghệ An. Hồi đó, chúng tôi đã "thông báo" trên báo Nhân Dân số ra ngày 29 - 12 - 1967. Sau đó tìm hiểu kĩ thì biết xuất xứ của bộ bản thảo gốc này là do ông Nguyễn Văn m (thường gọi là Thầy Êm) là người cháu gọi Cụ Phan bng cậu, nguyên là học trò của Cụ những năm 1934 - 1938 tại Bên Ngự, được Cụ giao cho cất giữ một trong ba bộ "bản thảo gc". Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, ông Nguyễn Văn Yêm đã đem tặng lại cơ quan văn hóa của tỉnh Nghệ An cùng vái một số tác phẩm khác của Phan Bội Châu. Nhưng qua thời gian, bộ bản thào này đã bị thất lạc mất một số.
Đồng thi vi sự phát hiện trên ờ Nghệ An thì tại Huế, trong cuộc triển lãm các hiện vật và tác phẩm cùa Phan Bội Châu nhân kì niệm 100 năm ngày sinh của Cụ được tố chc tại Viện Đại bọc Huê cuối năm 1967, gia đình ông Tông Châu Phu (ở tòa Khâm thiên giám - Thành Nội – Huế) cũng gửi đến Ban Tổ chức Triển làm một tập "bn tho" Chu Dich được sao chép lại rất cống phu, trang trọng từ một bản tho gc do gia đình ông Phan Nghi Đệ (con trai của Cụ Phan sống Huế) cho mượn. Tập sách này chép tay chữ rất đẹp trên khổ giấy đôi, đóng bìa cứng, mạ vàng, dựng trong một hộp gỗ, rất hấp dn mọi người. Ít lâu sau, năm 1969, Nhà sách Khai Trí ở Sài Gòn dã sử dụng chính bản chép tay này của ông Tng Châu Phu đ xuất bản thành 2 tập sách dày 1.224 trang khổ 14 x 20 cm lấy nhan đề là Chu Dịch và không ghi xuất xứ văn bn. Như vậy là đến năm 1969, đông đảo bạn đọc mi được tiếp xúc với bộ sách quý này. Nhưng nội dung tác phẩm này vẫn còn bị thiếu mất 4 chương, mà theo chúng tôi đến nay, cũng thật khó lòng "bổ khuyết" nếu chúng ta không tìm thấy một "bán tho gc" đầy đủ hơn. Còn bàn thảo ở gia đình ông Phan Nghi Đệ đến nay cùng thất lạc mất rồi. Dù sao thì bản của Khai Trí vẫn là bản tương đối đy đủ nhất. Đi chiếu với "bản thảo gốc" Nghệ An (phần còn lại) không có gì sai biệt đáng kể.
Nhân dây cùng xin ghi nhận tm lòng trân trọng đi vi các trước tác của Phan Bội Châu của ông Tống Châu Phu cũng như hảo ý của Nhà sách Khai Trí trước đây.
CHƯƠNG THÂU

PHÁT ĐOAN TỪ

Triết học Đông Phương xưa nay có ba nhà:
Một là: Phật học.
Hai là: Dịch hc.
Ba là: Lão học.
Nhưng Phật học thi lí tưng quá cao, mà quy kết về xut thế.
Lão học thi vẫn một nhà nhập thế, nhưng quá trọng về dường thuật sô mà cũng không th thông dụng được ở nhân gian.
Chúng ta tham khảo chiết trung ở trong các nhà triết học Đông phương, vừa tinh vi, vừa thiết thực, vừa thấu lí vừa thích dụng, thời chng gì bằng Dịch học.
Lòng ưu thì mẫn thế gốc một tấm lòng từ bi thời Dịch chẳng khác gì Phật, tùy thì thức thế đủ trăm đường biến hóa, thời Dịch có lẽ hay hơn Lão.
Thầy Thiệu Khang Tiết có nói rằng: ‘Trương Tử Phòng đắc Lão chi dụng, Mạnh Kha đắc Dịch chi dụng”.
Nghĩa là: Ông Trương Tử Phòng thời được cái đại dụng của Lão; thầy Mạnh Kha thời được cái đại dụng của Dịch.
Thầy Lục Tượng Sơn, thầy Vương Dương Minh thời đă tinh thông Dịch học, mà học thuyết lại thường cận tự Phật học. Vậy mối biết rằng: đã nghiên cứu Dịch học, thời Phật học, Lão học, cũng có thể nhất dĩ quán chi.
Gần nay Âu châu triết học thịnh hành, mà học giả nước Đức là ông Uy Lệ Hiên vào xứ Thanh Đảo nước Trung Hoa mi thầy học Dịch, nghiên cứu hơn 20 năm, biên thành bản Đức văn Chu Dịch, đưa vê nước trình vua Đức, được Uy Liêm (Guìllaume II) thưng cho Bác sĩ Học vị.
Bây giờ nhà Văn học Đại học nước Đức lấy sách ấy làm một bản chuyên môn giáo khoa.
Thanh niên học giả nước Đức chia làm hai phái:
1. Lão phái;
2.Dịch phái; thảy chú trọng về Đông phương triết học.
Người Tây phương quý trọng triết học Đông phương đến như thế, cớ sao người nước ta sinh ở Đông phương lại dòng dõi con nhà Hán học mà nỡ bỏ Dịch học chang ai nhắc ti.
Phật trong nhà không cầu, đi cầu Thích Ca ngoài đường; trong túi mình có bảo châu mà ngửa tay xin người từ hạt gạo, thế chẳng là sự rất quái gở hay sao?
Bỉ nhân lúc trẻ theo đòi khoa cử, chẳng qua vì tầm chương trích cú, nhân đó mà thiệp liệp Kinh Dịch dược hơn mười năm. Nhưng kể đến nghĩa kín lời sâu, thời chẳng qua một người đứng ngoài ngõ; ơn giời dạy bảo được vào trường trời dạy hơn hai mươi năm, sinh nhai vé bể mặn đồng chua, thầy bạn với non xanh nước biếc, mỗi khi u cư độc x dem mấy pho Nhật vãn Hán dịch ra xem, mới biết một nước phú cường ở Á châu như nước Nhật Bản, mà sách Chu Dịch, Tôn Tử, Quản Tử, tất thảy phiên dịch làm Nhật văn, lại y nguyên văn đặt làm chuyên môn Giáo khoa thư.
Ôi! Trông người lại ngẫm đến ta, trót 4.000 năm mà bản sách Chu Dịch chỉ là một bản sách làm ơn cho bọn thầy mù gỡ gạo và mấy chú văn sĩ mướn đ chiếm áo mũ cân đai mà thôi, óc tinh vi huyn bí của bốn vị Thánh: Hi, Văn, Chu, Khống văn cứu thì thiệp thế hơn 2.000 năm, chúng ta vẫn có trong nhà, mà xem bng tờ giấy loại. Thế chang dáng tiếc lắm hay sao?
Bỉ nhân kể về Dịch học chảng khác gì vỏ nghêu lường bể, trong ống dòm trời mà dám nói phát minh Dịch lí đâu. Chỉ vi nhất phiến khổ tâm, đau nỗi thiên thu tuyệt học. Ví như đăn, thức uống, miệng mình dã biết là ngon, thời chng dám riêng làm mình có. Vậy mi phiên dịch bản sách này, nhan ràng:
QUỐC VÀN CHU DỊCH DIỄN GIẢI
Tri ngã, tội ngã, thời tùy lòng kẻ xem.
Phan Sào Nam

PHÀM LPHÀM LỆ I

Trước phải biết những người nào làm ra Kinh Dịch.
Chú minh: bản sách này trải qua tay bốn vị Đại Thánh làm nên: Phc Hi, Văn Vương, Chu Công, Khổng Tử.
Lúc đầu tiên đời Thương cổ, chưa có văn tự, dân sinh chưa biết gì là Lợi, Hại, Cát, Hung.
Nhưng người sinh ngày một đông, không thể hỗn độn được mãi, mới có vị Đại Thánh thông minh trí tuệ thứ nhất là Phục Hi.
Trên xem văn trời, dưi xét lí đất, giữa khảo sát tình trạng vạn vật, mối nghĩ cách mở mang dân trí, để tăng tấn văn minh cho loài người. Bắt đầu chế ra Văn tự, đặt ra sáu phép viết, mới vạch ra tám quẻ, lại mỗi quẻ gia thêm một tám, tám lần tám là thành ra sáu mươi tư quẻ. Lúc ấy sáu mươi tư quẻ, thành sáu mươi tư dạng chữ.
Lệ như: Ba nét ngang liền là quẻ Càn, tức là chữ Thiên; sáu nét ngang đứt là quẻ Khôn tức là chủ Địa, v.v...
Đến đời Trung cổ, thánh Văn Vương biết được thâm ý của thánh Phục Hi là cốt lấy sáu mươi tư quẻ ấy đổ khai vật thành vụ, nghĩa là: m trí khôn người, làm nên việc đời.
Nhưng sợ chỉ có quẻ mà thôi, thời chác người đời không hiểu, nên Ngài mới làm thêm lời Soán vào dưới sáu mươi tư quẻ.
Đến con Ngài là thánh Chu Công, lại làm Hào từ đặt vào dưi ba trăm tám mươi tư hào.
Lúc bấy gi, bản sách Chu Dịch mối thành một bản sách có văn từ, có nghĩa lí.
Nhưng mà văn từ quá giản áo, ý nghĩa quá tinh thâm, học giả ít kẻ thông hiểu. Vậy nên đức Khổng Tử lại thể ý tùy thì lập giáo của ba Thánh trước mà làm thêm bản Thập Dực.
Dực, nghĩa là cánh con chim. Mà đức Khổng thích nghĩa Kinh Dịch nghĩ rằng: nguyên sách của ba Thánh trước, là đủ hình con chim rồi, bây giờ chỉ tổ chức thêm cho thành lông cánh, thời mới gọi là hoàn toàn. Vì vậy nên gọi bằng sách Dực.
Bản y gồm mười truyện:
1.    VĂN NGÔN
2.    SOÁN TRUYỆN
3.    ĐẠI TƯỢNG TRUYỆN
4.    TIỂU TƯỢNG TRUYỆN
5.    HỆ T THƯỢNG TRUYỆN
6.    HỆ TỪ HẠ TRUYỆN
7.    THUYẾT QUÁI TRUYỆN
8.    Tự QUÁI TRUYỆN
9.    TẠP QUÁI TRUYỆN
Tư quái truyện lại chia làm Thượng truyện, Hạ truyện gồm thành mưòi truyện.
Đó là kể những người đã làm Dịch xong rồi.

PHÀM LỆ II

Phải biết nghĩa tên Kinh vi sao mà đặt bằng tiếng Dịch. Dịch là nghĩa làm sao?
Nghĩa chữ Dịch cốt ở tinh thần. Trong chữ Dịch bao hàm ba ý nghĩa: bất dich, giao dch, biến dịch.
Bất dịch, nghĩa là chng thay đổi. trong tri đất, kể dọc là thì gian, kể ngang là không gian. Hễ đã có một vật gì, tất nhiên có một cái chất c định của vật ấy, có một việc gì, tất nhiên có một lí nhất định của việc ấy.
Lệ như: Càn, là thiên, thiên là trời, trài thời bao gi cũng khinh thanh tại thượng. Khôn là địa, địa là đất, đất thời bao giờ cũng trọng trọc tại hạ
Lại như: Khảm là thủy, thủy là nưốc, nước thời bao giò cũng có chất trôi chảy.
Li là hỏa, hoả là la, lửa bao gi củng có tia sáng chói, v.v...
Vậy nên ở trong Kinh Dịch dã Càn, thời nhất định là ba nét dương, đã Khôn, thi nhất định là ba nét âm; đó là nghĩa bất dịch.
Nhưng chân lí trong Vù trự; cái bất dịch y, chỉ được một phương diện. Sách Dịch là bao bọc cả sự lí, thiên địa, vạn vật, không thể chỉ nói bất dịch mà thôi; nên lại phải có hai nghĩa nữa: giao dịch và biến dịch.
Giao dịch, nghĩa là trao đổi với nhau, trong vạn sự, vạn vật. Bất dịch là nguyên thể; giao dịch là ứng dụng.
Lệ như: âm điện giao hoán với dương điện, mà sinh điện khí tác dụng; nam tinh giao hoán với nữ tinh mà thành dược nhân loại sanh dục. Lí ấy ở trong Dịch học lại càng rõ rệt lắm.
Tức là ba nét dương quẻ Càn giao dịch với Khôn, thành Chấn, Khảm, Cấn. Ba nét âm quẻ Khôn giao dịch với Càn thành Tốn, Li, Đoài.
Sự vật ở trong thiên địa cổ kim, muôn xét cho cùng nguyên cực ủy, tự thuỷ chí chung, thời chỉ một phần giao dịch cũng chưa hết dược chân lí tác dụng. Nên phải có một nghĩa nữa là biến dịch.
Biến dịch, nghĩa là biến hóa, thay đi. Sự vật gì theo về phần nguyên chất, hoặc phần thiên nhiên thời vằn bất dịch và giao dịch. Nhưng đã trải qua khi giao hoán tác dụng rồi, thời tức có biến dịch.
Lệ như: gang, chì vẫn là giống cố thể, mà bỏ vào lò lửa nấu, thời chảy ra nước, hoá thành lưu chất; tằm vẫn là giống nấp, nhưng khi đã vào kén làm nhộng, hóa ra bưm, thời thành ging bay.
Nghiên cứu Dịch học, thi cốt yếu nhất là nghĩa biến dịch.
Tức như: Dương hào biên ra được Âm hào, quẻ Càn biến ra được quẻ Khôn; toàn một bộ sách, không một vạch .nào mà chẳng biến dịch được, ấy là nghĩa rất tinh thông trong Kinh Dịch đó vậy.
Thầy Trình có câu nói rằng: Dch chi vi thư, tùy thì biến dịch, dĩ tùng đạo đả.
Nghĩa là: Dịch sở dĩ thành sách ra đó chỉ là cốt theo thì biến đổi cho đúng với đạo mà thôi. Câu nói ấy, chính là lấy nghĩa biên dịch thích chữ Dịch.
Bàn tóm lại, đủ ba nghĩa như trên ấy, mi hết được nghĩa chữ Dịch, mà ba chữ nghĩa ấy, lại tiếp tục tuần hoàn đẻ ra nhau.
Lệ như: Nguyên chất một người con trai hoặc một người con gái, thời trai nhất định là Dương, gái nhất định là Âm, thế là bất dịch. Đến khi trai gái giao hợp với nhau mà sinh ra trai hoặc gái, thô là nhân giao dịch mà thành biến dịch. Nhưng đã biến dịch rồi, thi trai y nhiên nhất định trai, gái y nhiên nhất định gái. Thế lại là biên dịch mà hoàn lại bất dịch.
Lại như: con tằm hoá ra bưm. Thế là biến dịch, mà đến khi bướm đẻ ra trứng, trứng nở ra tàm. Thế là do biên dịch, mà hoàn lại bất dịch.
Những nghĩa lệ như thế, ở trong Dịch chảng bao gi cùng.
Tức như: ba nét dương quẻ Càn vẫn là ba nét dương; nhưng vì mướn một nét đầu đổi cho Khôn, thành ra Chấn.
Mướn một nét gia đổi cho Khôn thành ra Khảm.
Mướn một nét cuối đôi cho Khôn thành ra cấn.
Đến khi dã biên hết ba nét rồi, thời quẻ Càn thành quẻ Khôn. Khi đã biến ra Khôn rồi, thì Khôn thành bất dịch.
Giải nghĩa chữ Dịch như thế cũng lược lược hiểu qua. Muôn tinh tường sáng suôt; thì phải xem ở Kinh văn.

PHÀM LỆ III

Hễ học Dịch tất phải biết ch Thi (Thời)
Nghĩa chữ Dịch, ct yếu nhất là biến dịch, mà cũng quy kết ở biến dịch.
Nhân vì Thì có biến dịch, ncn Dịch lí cũng phải có biến dịch.
Xưa nay trong Vũ trụ, không gian vẫn không biến dịch, mà thì gian vẫn thường thường biến dịch; một ngày một đêm hai mươi bốn tiêng đồng hồ cho dến một tháng, một năm, một thế kỉ, một vũ trụ, biến hóa thay đổi chẳng chổc phút nào dừng, thì gian hay biến dịch như thế; nên không gian cũng thường thường theo thi gian mà biến dịch.
Lệ như: Thì gian do Đông mà biến ra Xuân, thời không gian thường thấy biến nhiều gió hòa mưa ngọt; thì gian do Hạ mà biến ra Thu, thời không gian thường thấy nhiều mù đen mây trắng; đêm biến ra ngày, thời khống gian thường sáng; ngày biến ra đêm, thời không gian thường tối. Về phần thiên nhiên dành như thê, thời phần nhân sự cũng phải thế.
Thánh nhân làm sách Dịch dạy người, cốt nhất là tùy thì biến dịch. Vì nghĩa biến dịch, nên người học Dịch phải tinh nghĩa chữ Thì.
Biến dịch mà cho đúng vối thì, chính là tinh lí của Kinh Dịch.
Đổi cũ mà thay ra mới, phá hoại cái hiện tại mà kiến thiết cái tương lai, nhất thiết nhân sự vô luận hạng người nào,việc nào cũng chỉ đúng thì mà làm thời hay, chưa đúng thì mà làm thời dở. Trong Kinh Dịch, hễ mỗi một quẻ, tất có thì của quẻ ấy. Công dụng quẻ nào, chỉ làm cho đúng thì của quẻ ấy.
Thầy Thiệu Khang Tiết có nói rằng: Chu Dịch nhất bộ, khả nhất ngôn dĩ tế chi, viết Thì, nghĩa là: toàn bộ Dịch chỉ một chữ mà trùm bọc hết, là chữ Thì. Vậy chúng ta học Dịch, tất phải hiểu thấu nghĩa chữ Thì.
Thì, nghĩa là buổi. 14 như: buổi trưa thi ăn cơm, buổi đêm thài vào nghỉ.
Thi, nghĩa là mùa. Lộ như: mùa Hạ phải mặc áo cát, mùa Đông mặc áo cầu.
Thì, nghĩa là giờ. Lệ như: giờ sáng phải mở cửa, giờ tôl phải thắp đèn, v.v...
Đoạn này chảng qua nói đại lưực mà thôi, còn nói kĩ, thời xem ỏ Kinh văn.

PHÀM LỆ IV

Học Dịch tất cần phải biết Dịch số. Toàn bộ Dịch là một bộ sách số học.
Nguyên lúc đầu thánh Phục Hi vạch ra tám quẻ, là bắt chước ở Hà Đồ.
Hà Đồ chỉ là một bức số học, tổng cộng 55 điểm, bày thành s Cơ, Ngẫu, Âm, Dương. Cơ là s lẻ thuộc về Dương số. Ngẫu là s chẵn thuộc về Âm số. Vậy nên trong đồ, các khuyên trắng là thuộc về s Cơ, cũng là Dương s; các khuyên den là thuộc về s Ngẫu, củng là Âm s.
Bây giờ ta hãy theo tượng trong đồ mà xét cho ra nguyên lí của Vũ trụ.
Nguyên lúc đầu chưa có Trái đất, thời chỉ có không khí gia không gian. y tức là Thiên, mà chúng ta gọi bằng trời. Nhưng ở trong không khí mà gọi bằng trời dó, hàm súc có hai khí:
Giả thiết ra danh từ mà gọi, thời bằng nhất Âm, nhất Dương. Am, Dương kết hợp với nhau mơi ngưng tụ thành hình mà có Trái đất, ấy tức là Địa, mà chúng ta gọi bằng dất. Đã có Trái đất, tức khắc đồng thì ở trong khoảng trời đt có luôn Tứ tượng (Thủy, Hòa, Mộc, Kim) cũng gọi bằng Thái dương, Thiếu âm, Thiếu dương, Thái âm. Vậy nên Đức Khổng nói rằng: ‘Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái'.
Thánh Phục Hi s dĩ vạch Bát quái, chỉ nhân lí số ấy mà vạch ra. Vậy nên chúng ta muốn hiểu được nguyên lí của Bát quái, trước phải tham khảo ờ số Hà Đồ.
Xin kê rõ như sau này:
Phương vị Hà Đồ bày làm năm bộ: Bắc, Nam, Đông, Tây, Trung.
Phương vị phía Bắc là: nhất lục thủy. Vì lúc đầu trong trời đất có: Thủy trước hết, nên lấy số thứ nhất làm sô Thiên sinh Thủy.
Khi đă có Thủy rồi, thời bao nhiêu nhiệt chất trong địa cầu cũng đồng thì phát hiện, tức là Hỏa. Vậy nên trong đồ số vị phía Nam là: nhị thát hỏa.
Đã có Thủy, Hỏa ri, thi đồng thì cũng có Mộc, tức là loại thực vật sinh ở trên địa cầu. Vậy nên trong đồ sô" vị phía Đông là: tam bát mộc.

comment 0 Comment:

Post a Comment

 
© Dược liệu | Digital Millennium Copyright Act (DMCA) ; Email: duoclieuvn@yahoo.com