VÒI VOI
Tên khoa học:
Heliotropium indicum L.; Họ: Vòi voi (Borraginaceae).
Tên khác:
Dền voi, thiên giới thảo, đại vĩ đao, co nam (Thái).
Tên nước ngoài:
Indian heliotrope (Anh); héliotrophe des Indes, crête de coq, herbe
de Saint Fiacre, herbe papillon (Pháp).
Đặc điểm thực vật (Mô tả):
Cây thảo, cao 40 - 60cm. Thân hình trụ, màu lụe. Lá
mọc so le, hình bầu dục hoặc hình trứng, gốc lá men theo cuống, đầu nhọn, mép uốn
lượn, mặt trên màu lục sẫm, có gân hằn sâu thành mạng rõ, mặt dưới rất nhạt hơi
màu xám.
Cụm hoa mọc ở ngọn thân hoặc kẽ lá thành xim bọ cạp,
dài 8 - 10cm; hoa màu tím nhạt hoặc trắng, mẫu 5; đài hình ống ngắn; tràng hình
chuông ở phía trên, hình ống ở phía dưới; nhị 5; bầu 4 ô, mỗi ô 1 noãn.
Quả gồm 4 hạch nhỏ.
Toàn cây có lông nháp và mùi hôi.
Mùa hoa quả: tháng 5 - 7 .
Phân bố, sinh thái:
Heliotropium
L. là chi có số loài lớn, với khoảng 250 loài. Các loài phân bố rộng rãi từ
vùng ôn đới ấm đến vùng cận nhiệt đới và nhiệt đới ở khắp các châu lục, song tập
trung nhiều ở châu Mỹ. Ở Malaysia có 11 loài, trong đó có 7 loài được coi là
cây bản địa; Việt Nam chỉ có 3 loài.
Vòi voi có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới châu Mỹ, nhưng
ngày nay thấy cây phân bố ở các vùng nhiệt đới khác. Cây mọc tự nhiên phổ biến ở
các nước châu Á như Indonesia, Philippin, Malaysia, Thái Lan, Ấn Độ, Campuchia,
Lào, phía nam Trung Quốc, ở Việt Nam, cây mọc ở hầu khắp các tỉnh, trừ vùng núi
cao trên 1500m. Vòi voi cũng có ở tất cả các đảo lớn như Cát Bà, Hòn Mê, Cồn cỏ,
Cù Lao Chàm, Lý Sơn, Côn Đảo.
Vòi voi là cây ưa sáng, thưòng mọc trên các bãi đất ẩm
ở ven đưòng đi, quanh làng, nương rẫy, vườn và bãi bồi sông. Cây con mọc từ hạt
vào khoảng tháng 4-5; sinh trưởng nhanh trong mùa hè, ra hoa quả nhiều và tàn lụi
vào giữa mùa thu. Vòi voi có thể sống được trên nhiều loại đất, chịu nắng nóng
trong mùa hè; gieo giống tự nhiên từ hạt. Do đó cây thường mọc tập trung thành
đám ở nơi trước đây có cây mẹ.
Vòi voi thường bị coi là loài cỏ dại ảnh hưởng đến
cây trồng. Tuy nhiên khi cây mọc dày, có tác dụng chống xói mòn vào mùa mưa;
toàn bộ phẩn trên mặt đất được dùng làm phân xanh.
Bộ phận dùng:
Toàn cây (Herba Heliotropii Indici).
Thành phần hóa học:
Toàn cây vòi voi có indicin, acetylindicin,
indicinin, echinatin, supinin, heliotrin, lasiocarpin, lasiocarpin N - oxyd,
heleurin, indicin N - oxyd, cholinasterol. Ngoài ra, còn có β - sitosterol,
lupeol, β - amyrin và β - sitosterol glucosid.
Lá và cụm hoa có spermin, spermidin, putrescin,
homospermidin, retronecin, supinidin, trachelanthamidin. (Trung dược từ hải I, 1993, Từ điển cây thuốc,
1997).
Tác dụng dược lý:
Các alkaloid pyrrolizidin trong cây vòi voi có tác dụng
độc trên động vật, gia súc và lẻ tẻ trên người, nhiều alkaloid này có tác dụng
độc hại gan rõ rệt. Các oxydase ở gan động vật có vú biến đổi những alkaloid
này thành những cấu trúc pyrrol là chất alkyl hóa mạnh tác động với các chất ưa
nhân thích hợp của tế bào, ví dụ các acid nucleic và protein. Tuy tác dụng độc
của các chất chuyển hóa này thường được nhận xét thấy chủ yếu ở gan, nhưng phổi
và/hoặc những mô khác cũng có thể bị ảnh hưởng. Thêm vào tác dụng độc hại tế
bào, các alcaloid pyrrolizidin còn có tác dụng gây đột biến và gây ung thư.
Alkaloid indicin - N - oxyd trong vòi voi có hoạt
tính ức chế carcinom W-256 ở chuột cống trắng và bệnh bạch cầu L - 121 ở chuột
nhắt trắng, và được tiêm truyền một đợt ngắn 15 phút cho bệnh nhân có khối u rắn
đã được áp dụng hóa liệu pháp trước đó. Các tác dụng không mong muốn hạn chế việc
sử dụng là giảm bạch cầu và giảm tiểu cầu, và độc tính tích luỹ khi dùng những
liều nhắc lại. Nói chung, tác dụng độc hại gan ngăn cản việc tiếp tục nghiên cứu.
Heliotrin có tính chất gây ung thư, ngược lại indicin N-oxyd lại kháng carcinom
Ehrlich và sarcom 180 trên chuột nhắt bằng đường uống hay tiêm vào phúc mạc.
Trong những mô hình gây vết thương bằng đường rạch hoặc cắt bỏ da ở chuột cống
trắng, cao 10% (trọng lượng/thể tích) của vòi voi trong nước muối được bôi tại
chỗ trước khi gây vết thương, kết quả thử nghiệm về sức căng dãn cho thấy vòi
voi có tác dụng tốt trong giai đoạn tái tạo làm lành vết thương. Vòi voi cũng
có tác dụng chống viêm.
Tính vị, công năng:
Cây vòi voi có vị đắng nhạt, hơi cay, mùi hăng, tính
mát, có tác dụng thông huyết, trừ phong thấp, thanh nhiệt, tiêu viêm.
Công dụng:
Cây vòi voi được dùng theo kinh nghiệm dân gian để chữa
phong thấp, sưng khớp, lưng gối nhức mỏi, viêm họng, nhọt viêm tấy, mẩn ngứa.
Ngày dùng 15 - 30g dưới dạng thuốc sắc. Vòi voi còn được dùng làm thuốc thông
kinh, khi dùng liều cao có thể gây sẩy thai. Dùng ngoài, cành lá hoa tươi, giã
nhỏ, chưng với giấm đắp, chữa mụn nhọt, chín mé, viêm hạch, vấp ngã tụ máu,
bong gân. Vì cây vòi voi có tác dụng độc hại đối với gan, nên hạn chế việc dùng
uống để chữa bệnh.
Ở một số nước Đông Nam Á, lá cây vòi voi được dùng
trị hột cơm, mụn cóc và làm thuốc đắp để trị các khối u. Ở Indonesia, nước sắc
lá trị bệnh tưa, bệnh do nấm Candida. Trong y học dân gian Lào và Campuchia,
toàn cây vòi voi được dùng dưói dạng thuốc sắc uống hoặc thuốc đắp trị viêm,
sưng lấy, bong gân, thâm tím, đụng giập, viêm họng, áp xe và thấp khớp, thuốc đắp
lá trị herpes và thấp khớp, ở Philippin, rễ được dùng làm thuốc điều kinh, nước
hãm lá để rửa vết thương và mụn nhọt, lở loét, ở Thái Lan, nước sắc phần trên mặt
đất là thuốc hạ sốt, chống viêm và rễ tri bệnh về mắt. Ở Tây Phi, thuốc đắp lá
trị eczema và chốc lở.
Ở Ấn Độ, cây vòi voi được dùng để làm mềm da, lợi tiểu,
trị vết thương và dùng đắp tại chỗ trị loét, chốc lở, vết thương, nhọt ở lợi, bệnh
da, thấp khóp và sâu bọ cắn. Nước sắc chồi non trị ho và ghẻ; nước sắc lá trị sốt
và mày đay, nước sắc rễ tri ho và sốt. Hạt nhai và nuốt làm dễ tiêu, ở Nam và
Trung Mỹ, nước sắc lá còn trị lỵ và trị, dịch ép lá uống chữa chảy máu bên
trong, nước hãm lá dùng sức miệng tậ viêm họng. Ở Bò Biển Ngà, nhân dân bôi dịch
ép vòi voi để chữa vết thương, đắp lá rồi băng lại để tậ một số bệnh da, đặc biệt
tn eczema và chốc lở trẻ em.
Bài thuốc có vòi voi:
1. Chữa sai khớp
và bong gân, sau khi đã chỉnh hình các khớp:
Vòi voi (lá và hoa) 30g, tỏi 1 củ, muối ăn 10g. Tất
cả giã nát đắp vào chỗ sưng tấy, băng chặt.
2. Chữa vết
thương phần mềm:
Vòi voi 50g, sài đất 200g, tô mộc 20g. sắc nước rửa.
0 Comment:
Post a Comment