RÁY LEO LÁ RÁCH
Tên khoa học:
Rhaphidophora decursiva (Roxb.)
Schott; Họ Ráy (Araceae).
Tên đồng nghĩa:
Raphidophora decursiva
(Roxb.) A. Schott; Rhaphidophora affinis
Schott; Rhaphidophora eximia Schott; Rhaphidophora grandis Schott; Rhaphidophora insignis Schott; Scindapsus decursivus (Roxb.) Schott; Pothos decursivus Roxb.; Monstera multijuga K.Koch ex Ender; Monstera decursiva (Roxb.) Schott
Tên khác:
Lân tơ uyn, chuối hương lá xẻ, đuôi phượng, dây xống rắn, cuổi hùm (Tày), co
mác ngùm (Thái).
Đặc điểm thực vật (Mô tả):
Cây thảo leo, cao 4 - 20 m. Thân và cành hình trụ, mập,
nhẵn, màu lục xám, rễ mọc dài từ các mấu bám vào thân các cây to. Lá to, mọc so
le, hình trứng, màu lục sẫm hoặc đốm vàng, gốc hình tim, đầu nhọn, phiến xẻ
thùy dạng lông chim đến tận gân chính, mỗi bên có khoảng 10-15 thùy hình dải, gốc
hẹp lại và thủng lỗ; cuống lá mập, dài bằng lá hoặc dài hơn.
Cụm hoa là một bông hình trụ, màu lục nhạt, bao bọc
trong một mo nạc, hình trái xoan thuôn, màu vàng ở cả hai mặt, nhạt hơn ở mép,
sớm rụng; hoa nhiều, lưỡng tính, không có bao hoa, có hình 6 cạnh (nhìn từ trên
xuống); nhị 4, bao phấn hình tũĩi thuôn; bầu 2 ô, đầu nhụy màu vàng nhạt.
Quả mọng, khi chín màu đỏ da cam, chứa nhiều hạt.
Mùa hoa quả: tháng 7-9.
Phân bố, sinh thái:
Chi Raphidophora
Hassk. có 120 loài trên thế giới, phân bố rải rác ở vùng nhiệt đới, từ Tây Phi
sang châu Á đến Bắc Australia, ở Việt Nam có 14 loài, trong đó có 4 loài được
dùng làm thuốc hoặc trồng làm cảnh, trang trí nội thất như R. decursiva (Roxb.) Schott, R.
hongkongensis Schott, R. hookeri
Schott và R. megaphylla H. Li (Nguyễn
Văn Dư, 2000).
Ráy leo lá rách phân bố chủ yếu ở vùng cận nhiệt đới
và nhiệt đới châu Á, từ Nam Trung Quốc, đảo Hải Nam, Việt Nam, Lào đến một số
nước khác trong vùng Đông Nam Á. Ở Việt Nam, ráy leo lá rách thường gặp trong
các quần hệ rừng kín thường xanh ẩm nhiệt đới, trên núi đất hay núi đá vôi, có
nhiều ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hoà Bình, Thanh
Hoá, Ninh Bình, Tây Nguyên. Cây còn có ở các vùng rừng trên các đảo lớn như Cát
Bà, Cô Tô, Côn Đảo và Phú Quốc.
Ráy leo lá rách là cây rất ưa ẩm và có khả năng chịu
bóng tốt, thường mọc bám và leo trên thân những cây gỗ lớn hoặc các tảng đá. Với
khả năng đẻ nhánh khỏe và sinh trưởng mạnh, ráy leo lá rách thường tạo thành những
khóm lớn. Một idióm có thể cho khai thác từ vài tạ đến một tấn thân rễ tươi.
Cây ra hoa quả đều hàng năm, tái sinh tự nhiên chủ yếu
từ hạt. Khả năng tái sinh dinh dưỡng khỏe của ráy leo lá rách cũng là một ưu thế
cạnh tranh tốt đối với các loài cây phụ sinh khác.
Nguồn trữ lượng ráy leo lá rách ở Việt Nam rất lớn.
Tuy nhiên, nạn phá rừng làm nương rẫy và trồng rừng mới là nguyên nhân chủ yếu
làm thu hẹp vùng phân bố tự nhiên của cây.
Bộ phận dùng:
Thân (Caulis Rhaphidophorae).
Thành phần hóa học:
Ráy leo lá rách chứa saponin.
Tác dụng dược lý:
Theo Đặng Hanh Khôi và cộng sự, ráy leo lá rách có
tác dụng kháng khuẩn đối với các chủng Staphylococcus
aureus, Streptococcus pyogenic, Pseudomonas aeruginosa và Bacillus subtilis. Theo dõi tác dụng chống
viêm trên mô hình gây phù chân chuột và qua các chỉ tiêu sinh hóa như tốc độ
huyết trầm, nồng độ fibrinogen trong máu thấy ráy leo lá rách có tác dụng chống
viêm cấp rất tốt.
Về dược lý lâm sàng, Lê Khắc Lập (bác sĩ quân y Quân
giải phóng khu V) đã dùng ráy leo lá rách điều trị các vết thương chiến tranh
cho thương binh và có những nhận xét như sau:
- Trên lâm sàng điều trị vết thương phầh mềm, ráy
leo lá rách có tác dụng kháng sinh tại chỗ, có thể thay thế sulfamid và
penicilin. Những thương bình có vết thương phần mềm mà không có triệu chứng sốt
nhiễm trùng, chỉ dùng ráy leo lá rách là đủ.
- Ráy leo lá rách kích thích tổ chức hạt ở vết
thương phát triển nhanh, rút ngắn quá trình lấp đầy vết thương, kích thích da
non phát triển, chóng liền sẹo, hình thành sẹo mềm không sần sùi.
- Ráy leo lá rách làm sạch vết thương nhanh chóng,
qua 2-3 lần thay băng, mủ và các tổ chức chất nhầy được lấy đi, vết thương sạch
và đỏ, thời gian thay băng được rút ngắn tiết kiệm được bông gạc, và làm giảm
đau cho thương binh khi thay băng.
Công dụng:
Dựa vào kinh nghiệm dân gian, nhân dân ở Kon Tum thường
dùng ráy leo lá rách đắp vào vết thương khi làm nương rẫy bị dao rựa cắt đứt da
thịt. Nhiều cơ sở quân y dược ở chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ
đã dùng ráy leo lá rách chữa vết thương cho nhiều thương binh. Riêng bác sĩ Lê
Khắc Lập đã dùng cây này điều trị cho 357 trường hợp vết thương phần mềm, đạt kết
quả tốt và đã xác định các chỉ định điều trị của ráy leo lá rách trong ngoại
khoa là tất cả các vết thương phần mềm có miệng rộng, nếu là vết thương chột,
miệng nhỏ thì phải rạch rộng, cắt lọc tốt rồi mới dùng; các vết bỏng độ II và
III được điều trị có kết quả rõ rệt.
Cần chú ý là đối với vết thương chột, miệng nhỏ, ở
trong sâu còn dị vật, không nên dùng ráy leo lá rách vì sẽ làm cho vết thương
chóng liền miệng, làm ứ đọng mủ trong sâu.
Cách dùng ráy leo lá rách như sau : lấy 1 kg thân
cây, bỏ lá, cạo hết rễ, rửa rạch, băm nhỏ cho vào 3 lít nước đun sôi trong 3 giờ.
Lọc qua vải và cô lại còn 700 ml dụng dịch. Khi đắp vào vết thương, bệnh nhân
chỉ có cảm giác hơi xót như rửa nước muối ưu trương trong lần thay băng đầu
tiên, những ngày sau sẽ hết xót. Không nên dùng dung dịch ráy leo lá rách quá đặc,
nhất là dùng cao, vì khi đắp lên vết thương thuốc gây xót mạnh và gây phản ứng
sưng đỏ tại chỗ. Sau khi rửa vết thương bằng nước muối hoặc bằng nước sắc ráy
leo lá rách càng tốt, dùng vải gạc tẩm dung dịch dược liệu đắp lên vết thương,
băng lại và cách 2 - 3 ngày thay băng một lần tùy mức độ mủ nhầy của vết
thương. Nước sắc ráy leo lá rách chỉ dùng được trong vòng 5 - 7 ngày. Đặng Hanh
Khôi đã cải tiến dạng bào chế, dùng tiện lợi và bảo quản được trong vòng một
năm. Ngoài tác dụng trên, đồng bào ở các tỉnh Tây Bắc, Việt Bắc còn dùng lá
tươi ráy leo lá rách chữa di mộng tinh, chân tay co quắp. Nhân dân Phú Yên dùng
thân lá sắc uống chữa cảm cúm, đau khớp, đau mình. Đồng bào ở Gia Lai nấu cao
ráy leo lá rách thêm đường uống chữa đau dạ dày, lỵ. Cao ráy leo lá rách dùng
phối hợp với hoàng đằng chữa nấm gây bệnh ngoài da, với núc nác chữa tiêu chảy,
kiết lỵ.
Bài thuốc có ráy leo lá rách:
Thuốc bó gãy xương:
Cả cây ráy leo lá rách 50g, dây tơ hồng 30g, dây bìm
bìm 30g, dây đau xương 30g. Tất cả giã nhỏ, trộn vói rượu 90° đủ xâm xấp, đắp.
Ngày thay một lần, dùng 5-7 ngày.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Viện Dược liệu (2004), “Cây thuốc và động vật làm thuốc Việt Nam”, tập II, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật
0 Comment:
Post a Comment