RAU RÚT
Tên khoa học:
Neptunia oleracea Lour.; Họ Đậu, phân họ
Trinh nữ (Mimosaceae).
Tên đồng nghĩa:
Neptunia prostrata (Lam.)
Baill.
Tên khác:
Rau nhút.
Tên nước ngoài:
Neptunier (Pháp).
Đặc điểm thực vật (Mô tả):
Cây thảo, sống ở nước. Thân ngầm, mộc bò ngang, bao
bọc bởi phao xốp màu trắng, bén rễ ở các mấu. Lá mọc so le, kép lông chim hai lần,
lá chét nhiều, nhỏ, dài 0,5-2 cm, rộng 0,2 - 0,4 cm, xếp đều đặn, sít nhau từng
đôi một; cuống dài 5-7 cm, gấp khúc ở gốc.
Hoa mọc thành đầu, màu vàng, dài 6-15 cm; đài hình
chuông; tràng 5 cánh rời nhau; nhị 10; bầu nhẵn.
Quả chứa 6 hạt dẹt, nhẵn.
Mùa hoa quả: tháng 9-12.
Phân bố, sinh thái:
Chi Neptunia Lour,
chỉ có một loài rau rút ở Việt Nam. Về nguồn gốc chưa biết chính xác, song có
thể gặp rau rút mọc tự nhiên (ở vùng Đông Nam Á) và được trồng rải rác khắp các
vùng nhiệt đói ở cả hai bán cầu. Những nước trồng nhiều rau rút là Thái Lan,
Malaysia, Indonesia, Campuchia, Lào, Vỉệt Nam và cả ở phía nam Trung Quốc. Cây
trồng chủ yếu để lấy ngọn non làm rau ăn.
Ở Việt Nam, rau rút là cây trồng quen thuộc ở hầu hết
các tỉnh đồng bằng, trung du và cả vùng núi thấp (Lạng Sơn, Cao bằng, Tuyên
Quang, Thái Nguyên...), Rau rút là cây chỉ sống được ở nước, ưa sáng và thường
được trồng theo kiểu thả bè ở các đầm, ao, hồ. Ở Thái Lan, người ta còn trồng
rau rút bằng cách cắm cành xuống bùn ở những ruộng nước nông. Sau khi thân và
cành vươn dài, đưa thêm nước vào ruộng cho cây nổi lên mặt nước. Lá rau rút thường
khép lại nhanh chóng khi có những va chạm nhỏ đột ngột. Hiện tượng này được giải
thích là do sự rút nước nhanh chóng từ phiến lá chét vào cuống lá.
Rau rút sinh trưởng mạnh trong mùa hè - thu, nhờ hệ
thống rễ chùm đặc biệt phát triển, cây có thể hút được các chất vô cơ và hữu cơ
hòa tan trong nước. Rau rút có khả năng sinh chồi khoẻ, chỉ sau 7-10 ngày ngắt
ngọn, cây lại cho thu hoạch lứa tiếp theo.
Bộ phận dùng:
Toàn cây, thu hái quanh năm, dùng tươi hay phơi sấy
khô.
Tính vị, công năng:
Rau rút có vị ngọt, tính lạnh, có tác dụng bổ năm tạng
hư yếu, làm tan khí trệ ở gân xương, tiêu bướu cổ và làm mạnh gân xương.
Công dụng:
Rau rút được dùng chữa bướu cổ bằng cách ăn rau rút
hàng ngày, liền trong một tháng hoặc lâu hơn. Để chữa sốt cao, mất ngủ, bí tiểu
tiện, dùng 30 g rau rút giã vắt lấy nước cốt uống. Hoặc ăn canh rau rút nấu với
khoai sọ, cua đồng.
Chú ý:
Rau rút tính lạnh, người tạng hàn ăn thì đầy bụng, trẻ nhỏ ăn thì chân yếu. Có
ý kiến cho rằng ăn rau rút luôn thì mắt mờ và tóc sớm rụng.
Bài thuốc có rau rút:
1.
Chữa
bướu cổ:
Rau rút 30 g; cải trcd 20 g; mạch môn, sinh địa, mỗi
vị 15 g; sài hồ, kinh giới, xạ can, mỗi vị 8 g. sắc uống ngày một thang.
2. Chữa sốt cao, không ngủ được, nóng ruột, tiểu tiện không thông:
Dùng rau rút giã nhỏ, vắt lấy nước cốt uống.
0 Comment:
Post a Comment