TRẦM HƯƠNG
Tên khoa học:
Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte; Họ
Trầm (Thymelaeaceae).
Tên khác:
Kỳ nam, trầm gió.
Tên nước ngoài:
Aloe wood, eagle wood (Anh); aquilaire (Pháp).
Đặc điểm thực vật (Mô tả):
Cây gỗ lớn, thường xanh, cao 15 - 20 m, có khi đến
30 m. Thân thẳng, không có bạnh vè, đường kính 40 - 60 cm, vỏ ngoài mỏng, màu
nâu xám, có vết nứt dọc lăn tăn, rất dễ bóc, dai, mùi hơi hắc. Cành cong queo,
mọc hơi chếch. Lá mọc so le, hình trứng, trứng ngược hoặc bầu dục, dài 5 - 11
cm, rộng 3 - 9 cm, gốc hình nêm, đầu có mũi ngắn, mặt trên màu lục bóng, mặt dưới
nhạt có lông mịn màu xám, mép nguyên.
Cụm hoa mọc ở đầu cành hay kẽ lá; hoa nhỏ màu lục
vàng; đài hình chuông, 5 răng, có lông mềm ở hai mặt; tràng 10 cánh; nhị 10; bầu
thưòng 2 ô, mỗi ô có một noãn, đáy bầu có tuyến mật.
Quả hình trứng ngược, dài 4 cm, rộng 3 cm, phủ lông
mềm màu vàng xám, có đài tồn tại, khi chín nứt thành hai mảnh, chứa 1 - 2 hạt.
Mùa hoa; tháng 4 - 5; mùa quả; tháng 7-8
Cây dễ nhầm lẫn:
Cây gió (Rhamnoneuron
balansae (Drake) Gilg) cùng họ. Cây được dùng làm giấy, không cho trầm.
Phân bố, sinh
thái:
Aquilaria
Lamk. là một chi nhỏ, gồm các loài đều là cây gỗ, phân bố rải rác ở vùng nhiệt
đới và cận nhiệt đới thuộc Nam Á, Đông Nam Á, Nam Trung Quốc. Chi này ở Việt
Nam có 2 - 3 loài, trong đó có cây trầm hương.
Trầm hương là tên gọi chung của một số loài cùng chi
Aquilaria Lamk đều có khả năng cho trầm
như A. crassna Pierre. Cây có ở Việt
Nam, Lào, Campuchia; loài A. malaccensis
Lamk có ở Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan, Mianma, Indonesia, Campuchia và Việt Nam;
và loài A. sinensis (Lour.) Sprengel ở
Nam Trung Quốc.
Ở Việt Nam, trầm hương phân bố rải rác khắp các tỉnh
vùng nứi từ Hà Giang, Tuyên Quang, Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ An đến Tây Ninh và
đảo Phú Quốc tỉnh Kiên Giang. Các tỉnh ở miền Trung và Tây Nguyên (Quảng Bình,
Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc, Phú Yên,
Bình Đình, Khánh Hoà...) là những nơi có nhiều trầm hương nhất. Đó là loại cây
gỗ lớn, khi còn nhỏ hơi chịu bóng, sau trở nên ưa sáng. Cây thường mọc trong
các kiểu rừng kín thường xanh ẩm nhiệt đới, độ cao từ 50 đến 1200 m. Những cây
gỗ thường gặp trong rừng có trầm hương là táu đá (Hopea exalata); huỷnh (Tarrietia
spp.); gụ mật (Sindora siamensis);
ràng ràng (Ormosia spp.)... Trầm
hương ưa mọc trên đất feralit điển hình hay đất feralit phát triển trên đá kết
và đá granit. Cây ra hoa quả từ tháng 4 đến tháng 7. Khi quả chín, vỏ khô tự mở
để hạt rơi xuống đất và tái sinh lự nhiên dưới tán rừng.
Trầm hương dưới dạng “bắp trầm” có thể thấy trong
thân, gốc, rễ hay cành của cây trầm với hình dạng và kích thước rất thay đổi.
Nguyên nhân hình thành trầm chưa rõ, song có thể giả thiết rằng để chống lại sự
xâm nhặp của một loại nấm hay vi sinh vật, cây đã tiết ra những chất đặc biệt,
qua nhiều năm đã tạo thành “trầm” (Nguyễn Tập, 1984). Trầm hương là một sản phẩm
tự nhiên đặc biệt quý giá. Ngay từ thời thượng cổ, người Việt xưa đã biết khai
thác trầm hương để sử dụng, trao đổi và hiến tặng (các sách : Giao Châu dị vật
chí, Ô Châu cân lục; Thiên Nam dư hạ tập, Bản thảo bị yếu; Phủ biên tạp lục; Đại
Nam nhất thống chí...). Tuy nhiên không phải cây trầm nào cũng có trầm hương.
Theo kinh nghiệm của những người khai thác trầm hương (gọi là đi điệu) ở Phú
Yên, Quảng Bình, Quảng Ngãi, trầm hương có thể có trong những cây trầm lâu năm
(ước tính trên 30 năm tuổi), thân cong queo, vỏ thân không nhẩn, có nhiều u bướu
mà ở đó thường có loại kiến đen hoặc kiến nâu. Lá của những cây cho trầm hương,
thường màu xanh lá mạ hoặc hơi ngả vàng. Từ xưa người ta đã biết đánh giá chất
lượng trầm hương theo màu sắc như sau : màu sáp trắng ngà, sáp xanh, sáp vàng
và vằn hổ, từ đó có câu “nhất bạch, nhì thanh, tam huỳnh, tứ hắc”.
Do có giá trị đặc biệt quý giá, nên cây trầm hương ở
Việt Nam đã bị khai thác và chặt phá bừa bãi. Người khai thác trầm thường chặt
nhầm nhiều cây không có hoặc mới ở giai đoạn bắt đầu hình thành trầm. Do đó,
cây trầm hương ở Việt Nam đã được xếp vào Sách Đỏ và danh mục của CITES thế giới.
Gần đây, ngành lâm nghiệp đã nghiên cứu nhân giống từ hạt và trồng thêm được rất
nhiều cây trầm hương ở Quảng Bình, Quảng Nam, Đồng Nai và Ba Vì. Hy vọng rằng với
những nỗ lực như vậy, trầm hương ở Việt Nam sẽ tránh được nguy cơ bị tuyệt chủng.
Bộ phận dùng:
Gỗ của cây trầm hương (trầm) thu hoạch bằng cách đục
và bổ gỗ của những cây có trầm. Có 2 loại: trầm sinh ở cây sống, trầm rục ở cây
đã đổ. Kỳ nam là loại trầm đặc biệt (Từ điển Bách khoa nông nghiệp, 1991).
Thành phần hóa học:
Aquilaria
crassna: chưa thấy tài liệu nghiên cứu.
Theo Ishihara Masakazu và cs., 1993, trầm hương thu
mua ở Việt Nam qua thị trường Hồng Kông thuộc 2 loài Aquilaria agallocha và A.
sinensis
A. agallocha:
Theo Ishihara Masahazu và cs., 1993, trầm hương có 2
sesquiterpen aldehyd là (-) - selina - 3, 11 - dien - 14 - al và (+) - selina -
4, 11 - dien - 14 - al, các dẫn chất Me ester của 3 acid carboxylic
sesquiterpen là (-) - Me selina - 3, 11 - dien - 14 - oat, (+) - Me selina - 4,
11 - dien - 14 - oat và (+) - Me 9 - hydroxyselina - 4, 11 - dien - 14 - oat và
1 ceton nor - sesquiterpen là (+) - 1,5 - epoxy - nor - cetoquaien.
Cũng theo các tác giả trên, 1991, trầm hương còn có
7 sesquiterpen có khung gnaian là (-) - guaia - 1 (10) - 15 - ol - acid (-) -
guaia - 1 (10), 11 - dien - 15 carboxylic, Me guaia - 1 (10), 11 - dien - 15 -
carboxylat, (+) - guaia -1 (10), 11 - dien - 9 - on, (-) - 1 - epoxyguai - 11 -
en, (-) - guaia - 1 (10), 11 - dien - 15, 2 - olid và (-) rotundon.
A. sinensis
:
Theo Qi Shiuyan và cs., 1992, mô gỗ trầm hương A. sinensis nhiều nấm Menanotus flavolives có oxo - agarospirol.
Sự nhiễm nấm này đã làm thay đổi hàm lượng acid palmitic, acid octadeca - 9 -
enoic, acid octadeca - 10, 12 - dienoic và acid béo trong mô gỗ.
Tinh dầu trầm hương A. sinensis chứa acid baimuxifuranic. Ngoài ra, trầm còn có
sinenofuranol, sinenofuranal.
Tác dụng dược lý:
Dạng cất kéo hơi nước và dạng chiết từ trầm hương có
tác dụng ức chế co bóp tự chủ của hồi tràng chuột lang và chống co thắt cơ trơn
dọ histamin và acetylcholin gây nên. Trên mèo gây mê, trầm hương với liều 1,8
g/kg tiêm dưới da, có tác dụng làm giảm biên độ co bóp của ruột do tiêm
acetylcholin gây nên, đồng thời làm giảm nhu động tự nhiên của ruột.
Tính vị, công năng:
Trầm hương có mùi thơm, vị cay, đắng, tính ôn, vào
các kinh thận, tỳ, vị, có tác dụng giáng khí, ôn trung, noãn thận, tráng nguyên
dương, giảm đau, gây trấn tĩnh.
Công dụng:
Trầm hương là nguyên liệu chất thơm quý và vị thuốc
đặc sản của Việt Nam chữa đau ngực, đau bụng, nấc, nôn mửa, hen suyễn, thận hư
khí nghịch suyễn cấp, bí tiểu tiện, nam giới tinh lạnh.
Liều dùng, cách dùng:
Liều lượng hàng ngày : 1,5 - 4,0g dưới dạng bột,
ngâm rượu hoặc mài với nước uống (không dùng dạng nước sắc vì thuốc sẽ mất hết
mùi thơm). Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác như nhục quế, hoàng
liên, ô dược, bạch đậu khấu. Có nơi, người ta lấy gỗ trầm nấu nước tắm hoặc
xông chữa trẻ em sài giật, dùng cây trầm non sao vàng sắc uống chữa ho và lá đắp
chữa đau mắt đỏ.
Chú ý:
Bệnh
nhân âm quỵ hỏa vượng khi dùng trầm hương phải cẩn thận, không được dùng trầm
hương cho phụ nữ có thai.
Trầm hương còn là một mặt hàng xuất khẩu có giá trị
cao.
Bài thuốc có trầm hương:
1. Chữa nôn mửa, đau bụng, đau dạ dày:
Trầm hương 10g, nhục quế 10g, bạch đậu khấu 8g,
hoàng liên 8g, đinh hương 10g. Tất cả tán nhỏ thành bột. Ngày uống 3-4 lần, mỗi
lần 1,0g bột. Dùng nước nóng chiêu thuốc.
2. Chữa hen suyễn:
Trầm hương l,5g, lá trắc bá 3,5g. Nghiền thành bột mịn,
uống trước khi đi ngủ.
3. Chữa tinh thẩn bị xúc động, khí dồn lên thở gấp, buồn bực không ăn được:
Trầm hương phối hợp với nhân sâm, ô dược, hạt cau. Mỗi
thứ lượng bằng nhau 6g. (Hành giản trân nhu).
0 Comment:
Post a Comment