TRÂU CỔ
Tên khoa học:
Ficus pumila L.; Họ : Dâu tằm
(Moraceae).
Tên đồng nghĩa:
Ficus stipulata Thunb.
Tên khác:
Vảy ốc, bị lệ, cơm lênh, cây xộp, mộc liên, sung thằn
lằn, mác púp (Tày).
Tên nước ngoài:
Creeping fig, climbing fig (Anh).
Đặc điểm thực vật (Mô tả):
Dây leo nhỏ, mọc bám nhờ rễ phụ. Cành ngắn và mềm,
màu nâu, lúc non có lông sau nhẵn. Lá mọc so le, lá ở cành sinh sản (cành này
thường lên cao mới phân cấp) hình bầu dục hoặc hình trứng, dài 5-7 cm, rộng 2,5
- 4,5 cm, gốc tròn hoặc hơi hình tim, đầu tù hoặc hơi nhọn, hai mặt nhẵn, mép
nguyên, gân gốc 3 - 5, nổi rõ ở mặt dưới, gân phụ tạo thành mạng thưa; cuống lá
dài 1,8 - 1,5 cm, có lông hung; lá kèm có lông; lá ở cành không sinh sản hình vảy
ốc, gốc lệch mọc áp sát vào thân cây chủ, dài khoảng 2 - 2,5 cm, cuống ngắn 2-3
mm.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá; hoa đực rất nhiều, mọc tụ tập ở
gần đỉnh, đài 2-3 răng, nhị 2, bao phấn hẹp; hoa cái có 4 lá đài không bằng
nhau; bầu thuôn dài, cong.
Quả phức to, hình chóp ngược, đầu bằng, dài 3,5 cm,
dày 3 cm, nhẵn, màu tứn nâu khi chín, cùi nạc và mềm xốp.
Mùa hoa quả : tháng 5-10.
Phân bố, sinh thái:
Trâu cổ có nguồn gốc lừ Nhật Bản và Trung Quốc, phân
bố tự nhiên từ Trung Quốc đến Việt Nam, Lào; cây còn được trồng rộng rãi khắp
vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Á, để làm cảnh và làm thuốc, ở Việt Nam,
cây phân bố gần như khắp nơi, trừ vùng núi cao trên 1500 m. Trâu cổ thường phụ
sinh trên thân những cây gỗ ở vùng rừng thứ sinh, dọc theo các bờ sông suối,
hay trên những cây cổ thụ ở vùng đồng bằng, trung du cũng như cây trồng lấy
bóng mát ở các thành phố. Cây còn mọc bám trên các tảng đá hay tường gạch xây
lâu ngày. Lợi dụng khả năng này, người ta trồng trâu cổ cho leo lên các trụ cổng,
tường rào và mặt ngoài tường các dinh thự cho thêm phần cổ kính.
Trâu cổ là cây ưa sáng, sinh trưởng mạnh trong mùa
mưa ẩm. Về mùa đông, cây gần như ngừng sinh trưởng nhưng lá vẫn xanh. Cây ra
hoa quả nhiều vào mùa hè - thu. Khi quả chín rụng xuống đất, phần thịt thối rữa,
hạt phát tán ra xung quanh. Tuy nhiên, tất cả những cây trâu cổ phụ sinh trên
thân cây gỗ là do chim ăn quả chín, hạt theo phân chim dính vào vỏ cây giá thể.
Trâu cổ có khả năng tái sinh dinh dưỡng khỏe.
Cách trồng:
Trâu cổ thường được trồng cho leo lên các cây to, bờ
tường, bờ rào; cây leo đến đâu, các đốt thân sẽ ra rễ đến đó và bám vào giá thể.
Cành lá của trâu cổ không đều nhau, có cành lá nhỏ như vảy ốc bám sát vào tường,
có cành lá to và thường sẽ cho quả.
Cây được nhân giống bằng các đoạn thân có rễ ở đốt.
Chỉ cần cắt một đoạn rồi giâm xuống đất và bảo đảm đủ ẩm sẽ mọc thành cây. Chú
ý trồng cạnh bờ tường, cây to để cây có chỗ leo. Trâu cổ sống khỏe, sinh trưởng,
phát triển nhanh, ít sâu bệnh, không cần chăm sóc.
Quả, thân mang lá, lá và rễ.
Vỏ quả trâu cổ chứa chất gôm 13%. Khi thủy phân, chất
này cho glucose, fructose và arabinose.
Thân và lá chứa rutin, mesoinositol, β-sitosterol,
taraxeryl acetat, β amyrin - acetat (Trung thảo dược học II, 1976).
Nhựa mủ chứa 2 chất kết tinh có điểm chảy theo thứ tự
184 - 85° và 68 - 69°, 1 chất màu vàng có khả năng thẩm tích được, một enzym có
hoạt tính thủy phân protid là ficin (chất này độc với ngươi và một chất trong
suốt (The Wealth of India IV, 1956).
Theo Kawabe Seiichiro và cs., 1989, hạt của F. pumila L. var. aukeotsang chứa polysaccharid với trọng lượng phân tử ~ 283.000.
Tác dụng dược lý:
Thí nghiệm trên chuột nhắt, polysaccharid của quả
trâu cổ vói liều 416,6 mg/kg, tiêm xoang bụng hoặc tiêm dưới da liên tục 10
ngày có tác dụng ức chế nhiều loại tế bào ung thư đã được cấy ghép trên chuột,
mạnh nhất đối với sarcom lympho I và sarcom 180. Thí nghiệm trên chuột nhắt trắng,
polysaccharid có tác dụng tăng cường phản ứng miễn dịch của chuột cả ở lô bình
thường và lô đã được cấy ghép khối u cũng như lô đã cấy ghép khối u đang dùng
hóa trị liệu hoặc xạ trị liệu (radiotherapy). Thuốc làm tăng số ỉượng tế bào
sinh kháng thể ở lách, tăng cường tác dụng thực bào của các macrophage ở xoang
bụng, đồng thời làm tăng số lượng bạch cầu máu ngoại vi.
Tính vị, công năng:
Quả trâu cổ có vị ngọt, chát, tính bình, có tác dụng
bổ thận, tráng dương, cố tinh, hoạt huyết, hạ nhũ.
Thân, cành, lá có vị chua, đắng, tính bình, có tác dụng
khư phong, lợi thấp, tiêu thũng, tán kết.
Rễ có vị đắng, chát, tính bình, có tác dụng khư
phong, trừ thấp, thư kinh, thông lạc.
Công dụng:
Quả trâu cổ là một vị thuốc bổ được nhân dân dùng từ
lâu đời để chữa dương ủy di tinh, liệt dương, đau lưng, lỵ lâu ngày thoát
giang, tắc tia sữa. Liều dùng hàng ngày : 5 - 15g, có thể đến 20 - 30g dưới dạng
thuốc sắc hoặc chế thành cao.
Thân, cành, lá chữa phong thấp, đau nhức chân tay,
mình mẩy với liều 9 - 15g mỗi ngày, dưới dạng nước sắc hoặc ngâm rượu uống.
Rễ chữa đau đầu, chóng mặt, đau khớp, đau dây thần
kinh toạ. Nhựa mủ bôi ngoài chữa mụn nhọt, đầu đinh, ghẻ lở, dị ứng sơn.
Bài thuốc có trâu cổ:
1. Chữa đau xương, đau mình:
Quả trâu cổ thái nhỏ nấu với nước, lọc bỏ bã, cô đặc
thành cao. Ngày uống 5 - 10g (Đỗ Tất Lợi). Có thể dùng dây và lá phơi khô.
2. Chữa dương ủy, di tinh:
Quả trâu cổ 12g, dây sàn xạt 12g. sắc nước uống
(Trung thảo dược học Trung Quốc).
3. Chữa thấp khớp mạn tính:
Cành trâu cổ, rễ cỏ xước, thổ phục linh, rễ tầm
xuân, mỗi thứ 20g; dây rung rúc 12g; thiên niên kiện, rễ gấc, lá lốt, dây đau
xương, cành dâu mỗi thứ 10g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô sắc với 400 ml nước còn
100 ml, cô tiếp cho thật đặc, khi dùng hòa thêm rượu chia 3 lần uống trong
ngày. (Bệnh viện Vân Đình, huyện ứng Hoà, Hà Tây).
4. Chữa tắc tia sữa, sưng vú:
Quả trâu cổ 40g; bồ công anh, lá mua mỗi thứ 15g. Sắc
nước uống. Kết hợp dùng ngoài, lấy lá bồ công anh giã nhỏ chế với giấm, chưng
nóng rồi chườm đắp (Lê Trần Đức).
0 Comment:
Post a Comment