BỒ CÂU
Tên khoa học:
Columba liviadomestica Gmelin; Họ: Bồ câu (Columbidae).
Tên khác:
Bồ câu nhà, chim câu.
Tên nước ngoài:
Pidgeon (Anh), pigeon domestique (Pháp).
Mô tả:
Loài chim có thân gọn, hình thoi. Đầu nhỏ, tròn. Mỏ ngắn,
cánh mũi phồng lên như hai hạt gạo. Cánh khỏe và nhọn. Chân có 4 ngón. Đuôi ngắn.
Bộ lông màu xám đen, có khoang trắng. Chim trưởng thành có trọng lượng
từ 500 g đến 1000 g. Bồ câu ngoại thường nặng hơn 1000 g. Chim cái nhỏ hơn chim
đực.
Chim bồ câu: Columba livia domestica Gmelin
Phân bố, sinh thái:
Bồ câu nhà có nguồn gốc từ bồ câu rừng, sống phổ biến ở châu
Á, châu Âu, Nam Mỹ, Bắc Phỉ và hiện nay là loài chim nuôi rộng rãi khắp các
châu lục. Có nhiều giống rất khác nhau về kích thước và màu sắc, được phân chia
thành 4 nhóm như bồ câu đưa thư, bồ câu bay lượn, bồ câu cảnh và bồ câu thịt .
Trong đó, bồ câu cảnh được coi là phong phú và đa dạng, nhiều màu sắc từ trắng,
đen, nâu, xám đến nâu - đen, trắng - đen và xám - đen; có loại mà lông đầu dựng
lên như cái mào, có loại đuôi xòe như đuôi công (gọi là chim công), lại có loại
phồng diêu như quả bóng.
Bồ câu bay giỏi, tự kiếm thức ăn. Thức ăn thông thường của
chim là các loại hạt như thóc, ngô, đậu xanh. Bồ câu đẻ 2 trứng cách nhau một
ngày. Con đực và con cái thay nhau ấp trứng. Chim non được nuôi bằng chất sữa đặc
biệt do diều của chim bố, mẹ tiết ra trộn với thức ăn được đưa vào diều. Khi bồ
câu con được 2 - 3 tuần thì chim mẹ lại tiếp tục đẻ. Chim con nuôi được 4-5 tuần
đã bắt đầu tự mổ thức ăn. Thông thường hai chim con ở cùng một lứa sau trở thành
đôi. Nhưng người ta thường ghép chim đực, chim cái ở 6 - 8 tháng tuổi để bảo đảm
giống tốt, ngày càng phát triển.
Bộ phận dùng:
Bồ câu được dùng trong y học cổ truyền với tên thuốc là cáp
điểu hay gia cáp gồm thịt chim (cáp điểu nhục), tiết chim (cáp điểu huyết) và
phân chim (cáp điểu phẩn). Trong một số trường hợp, trứng chim (cáp điểu noãn)
cũng được dùng.
Thành phần hóa học:
Thịt chim bồ câu chứa 22,14% protid, 1% lipid, các muối
khoáng. Tiết chim có nhiều chất đạm, chất sắt, huyết sắc tố. Phân chim chứa
nitơ toàn phần, ammoniac.
Tính vị, công năng:
Thịt chim bồ câu có vị mặn, tính bình, không độc, có tác dụng
bổ ngũ tạng, tăng cường khí huyết, mạnh dương, trừ cam tích, kích thích tiêu
hóa. Tiết chim có vị ngọt, mặn, mùi tanh, tính ấm, có tác dụng giải độc, điều
kinh. Phân chim có vị đắng, tính ôn, có tác dụng giảm đau, tiêu tích. Trứng
chim có vị ngọt, chua, mặn, tính bình, có tác dụng ích khí, giải độc.
Công dụng:
- Thịt bồ câu rất thích hợp với thể trạng người cao tuổi, phụ
nữ và trẻ em dưới dạng cháo ăn nóng. Người uống được rượu, hàng ngày ăn chim bồ
câu tẩm rượu, nướng vàng cũng rất tốt.
Để chữa chứng liệt dương, thiếu máu, hoa mắt hay choáng
váng, lấy chim bồ câu non (1 con) và chim sẻ trộn với thức ăn được đưa vào diều.
Khi bồ câu con được 2 - 3 tuần thì chim mẹ lại tiếp tục đẻ. Chim con nuôi được
4-5 tuần đã bắt đầu tự mổ thức ăn. Thông thường hai chim con ở cùng một lứa sau
trở thành đôi. Nhưng người ta thường ghép chim đực, chim cái ở 6 - 8 tháng tuổi
để bảo đảm giống tốt, ngày càng phát triển.
Bộ phận dùng:
Bồ câu được dùng trong y học cổ truyền với tên thuốc là cáp
điểu hay gia cáp gồm thịt chùn (cáp điểu nhục), tiết chim (cáp điểu huyết) và
phân chim (cáp điểu phẩn). Trong một số trường hợp, trứng chim (cáp điểu noãn)
cũng được dùng.
Thành phần hóa học:
Thịt chim bồ câu chứa 22,14% protid, 1% lipid, các muối
khoáng. Tiết chim có nhiều chất đạm, chất sắt, huyết sắc tố. Phân chim chứa
nitơ toàn phần, ammoniac.
Tính vị, công năng:
Thịt chim bồ câu có vị mặn, tính bình, không độc, có tác dụng
bổ ngũ tạng, tăng cường khí huyết, mạnh dương, trừ cam tích, kích thích tiêu
hóa. Tiết chim có vị ngọt, mặn, mùi tanh, tính ấm, có tác dụng giải độc, điều kinh.
Phân chim có vị đắng, tính ôn, có tác dụng giảm đau, tiêu tích. Trứng chim có vị
ngọt, chua, mặn, tính bình, có tác dụng ích khí, giải độc.
Công dụng:
- Thịt bồ câu rất thích hợp với thể trạng người cao tuổi, phụ
nữ và trẻ em dưới dạng cháo ăn nóng. Người uống được rượu, hàng ngày ăn chim bồ
câu tẩm rượu, nướng vàng cũng rất tốt.
Để chữa chứng liệt dương, thiếu máu, hoa mắt haỹ choáng
váng, lấy chim bồ câu non (1 con) và chim sẻ (5 con) làm thịt, bỏ lòng ruột,
cắt nhỏ, sấy khô giòn, tán bột mịn; đỗ trọng (120 g) sao tồn tính, tán nhỏ cùng
với muối rang (4 g). Trộn đều các bột, luyện với mật ong làm thành viên bằng hạt
ngô. Ngày uống hai lần, mỗi lần 15 viên với nước ấm (Thuốc bổ thận tráng
dương).
Thịt chim bồ câu tần với yến sào, đỗ xanh, nếp vàng và mộc
nhĩ lại là thức ăn ngon, vị thuốc bổ rất tốt cho mọi lứa tuổi.
- Tiết bồ câu được dùng lúc còn nóng, nhỏ làm nhiều lần vào
miệng nạn nhân để chữa trúng độc thức ăn. Hoặc phối hợp với bột xơ mướp đốt tồn
tính (1 quả) làm thành bánh, phơi khô; khi dùng, tán nhỏ, ngày uống hai lần, mỗi
lần 8 g với rượu vào lúc đói chữa kinh nguyệt không đều, kinh bế lâu ngày không
thông.
- Phân bồ câu được dùng mỗi ngày 20 g, sao vàng, tán nhỏ,
cho vào ít rượu, khuấy đều, đợi lắng trong thì bỏ cặn, gạn uống để chữa đau bụng
thuộc âm chứng, sắc mặt xanh xao, nhợt nhạt. Dùng ngoài, phân bồ câu sao vàng,
tán bột, rắc chữa thịt lồi ra ở mụn nhọt đã vỡ mủ (Nam dược thần hiệu).
Bài thuốc có chim bồ câu:
Theo tài liệu nước ngoài, ở Trung Quốc, người ta dùng chim bồ
câu cùng với những dược liệu khác dưới dạng món ăn - vị thuốc khá phổ biến để bổ
tỳ, tăng cường khí huyết, nhất là cho người mới ốm dậy. Cách làm như sau:
Chim bồ câu non (1 con) làm thịt, bỏ ruột, chặt nhỏ; hoàng kỳ
(30 g), câu kỷ tử (30 g) phơi khô, thái nhỏ. Trộn đều, thêm nước, hấp cách thủy
cho chín nhừ, cho gia vị, rồi ăn cả cái lẫn nước. Cứ 3 ngày ăn một lần. Dùng
3-5 lần.
Để chữa đái đường, lấy chim bồ câu (1 con) làm sạch, chặt nhỏ,
nấu chín với mộc nhĩ trắng (15 g) hoặc hoài sơn (30 g) và ngọc trúc (20 g). Ăn
cả cái lẫn nước làm một lần trong ngày.
0 Comment:
Post a Comment