BỌ NGỰA
Tên khoa học:
Mantis religiosa
L.; Họ Bọ ngựa (Mantidae).
Tên khác:
Bù cào, cào cào, đường lang, ngựa trời.
Tên nước ngoài:
Mantis (Anh), mante religieuse (Pháp).
Mô tả:
Loài côn trùng cỡ lớn, có cơ thể thuôn dài khoảng 8 cm, màu
xanh lục nhạt, đôi khi màu vàng-nâu. Đầu hình tam giác, thường chúc xuống, cổ
dài quay các phía dễ dàng, đôi râu ở giữa đỉnh dầu hình chỉ, mắt to lồi, miệng
thuôn tù. Lưng gồ nhọn, có cạnh. Ngực thon dài, gấp khúc được. Bụng có nhiều đốt,
xếp đều đặn. Đôi chân trước to, khỏe, dạng càng như lưỡi kiếm, mép trong có một
hàng răng nhọn sắc, hai đôi chân sau mảnh như những cái que. Hai cánh trên dày,
hai cánh dưới mỏng dạng màng, đầu cánh có màu nâu nhạt. Con đực thường nhỏ hớn
con cái.
Nhiều loại bọ ngựa thuộc các chi khác nhau như Tenodera, Paratenodera, Hierodula cũng
được dùng.
Bọ ngựa và vị thuốc Tang phiêu tiêu
Phân bố, sinh thái:
Bọ ngựa sống ở bờ bụi, lùm cây, thích nghi với môi trường ẩm
và sáng, thường thấy ở khắp nơi vùng nhiệt đới và ôn đới. Nó hoạt động rất linh
hoạt, ẩn mình ngụy trang lẫn với lá cây rất khó phát hiện.
Thức ăn chính của bọ ngựa là các loại côn trùng nhỏ, nhất là
rệp cậy; khi cần chúng có thể ăn thịt lẫn nhau. Đẻ trứng vào mùa hè thu, trứng
dính với nhau thành ổ đính vào cành cây. Khoảng 3-4 tháng sau, trứng nở thành ấu
trùng và sau 4 lần lột xác, ấu trùng phát triển đến dạng trưởng thành.
Ở các vùng nhiệt đới, còn có một loài bọ ngựa có một đốt
mang màu tím nhạt ở đôi chân trước. Khi bọ ngựa cần bắt mồi, nó giơ hai chân
trước lên để lộ ra mẩu đốt màu tím trông như bông hoa đang nở, sẽ thu hút các
loài côn trùng nhỏ lầm tưởng đó là những cánh hoa mà bay đến hút mật. Lúc này,
đôi chân to khỏe và đẫy răng nhọn của bọ ngựa chỉ việc quặp chặt là còn mồi hết
đường thoát.
Còn việc bọ ngựa cái ăn thịt con đực trong khi giao phối, đã
có một số công trình nghiên cứu của các nhà côn trùng học chứng minh sở dĩ có
hiện tượng này là do trước khi giao phối, con cái đang trong tình trạng “đói
meo” nên phải xử lý đối thủ của mình.
Bộ phận dùng:
- Cả con bọ ngựa, tên thuốc trong y học cổ truyền là đường
lang, bắt về, vặt bỏ đầu, chân, cánh và ruột, đem rang vàng cho eó mùi thơm, rồi
tán bột.
- Tổ bọ ngựa (bao trứng, phiêu tiêu) tên nước ngoài là Egg
capsule of mantis (Anh), nid de mante religieuse (Pháp). Thường dùng tổ đính
trên cây dâu tằm với tên gọi dân đã là ổ cào cào đeo dâu, tên thuốc là tang
phiêu tiêu.
Tổ có hình cầu tròn hoặc hình trứng hơi dài, dẹt ở phía
trên, đầu múp bẹt có lỗ và mỏ nhỏ nhọn, dài 2 - 5cm, rộng 1-3 cm, màu nâu vàng
đến nâu sẫm, mặt ngoài có nhiều nếp xếp ngang tương ứng với những ngăn hẹp bên
trong chứa đầy trứng, mặt đính vào cành cấy phẳng hoặc hơi lõm thành máng. Thể
nhẹ, chất dai, chắc, mặt cắt ngang cổ nhiều ô xếp thành tia, chứa trứng màu nâu
vàng.
Tổ được thu hoạch vào tháng 10 - 1, lấy về đem đồ khoảng nửa
giờ cho chín trứng bên trong, rỗi nướng vàng hoặc sao giòn, tán bột, rây mịn.
Có tài liệu còn nêu có thể sao với rượu, giấm hoặc đốt tồn tính. Dược liệu có chất
nhẹ xốp, màu vàng, còn trứng và không lẫn tạp chất là loại tốt.
Thành phần hóa học:
Tổ bọ ngựa có protid, lipid, Ca và sắt.
Tính vị, công năng:
Theo các tài liệu cổ, tổ bọ ngựa cổ vị ngọt, mặn, hơi tanh,
tính bình, không độc, có tác dụng bổ thận, ích tinh.
Công dụng:
- Cả con bọ ngựa được dùng chữa viêm họng, trĩ, kinh phong.
Ngày uống 6 -12 g dược liệu đã chế biến. Có thể dùng ngoài, lấy bột thổi vào họng
hoặc đắp.
- Tổ bọ ngựa chữa mồ hôi trộm, đái nhiều lần nhất là về đêm,
di tinh, liệt dương, xuất tinh sớm, đau lưng, khí hư, trẻ em đái dầm, người cao
tuổi đái són, kinh bế. Liều dùng hàng ngày: 6 - 8 g. Dùng riêng hoặc phối hợp với
ích trí nhân với lượng bằng nhau. Dùng ngoài, tổ bọ ngựa đốt tồn tính, tán bột,
trộn với dầu để bôi chữa mụn nổi có mủ ở trẻ em.
Bài thuốc có bọ ngựa:
1. Thuốc
bổ thận chữa đau lưng, đái són:
Tổ bọ ngựa cây dâu (30 g), ba kích (30 g), thạch hộc (20 g),
đỗ trọng (20 g). Tất cả thái nhỏ, phơi khô, tán, rây bột mịn, luyện với mật ong
làm viên 6 g. Ngày uống hai lần, mỗi lần 1 viên với ít rượu hâm nóng. Hoặc tổ bọ
ngựa cây dâu (10 g), kim anh (10 g), liên tu (10 g), sơn dược (12 g), sắc với
400 ml nước còn 100 ml, uống làm hai lần trong ngày.
Thuốc rất tốt cho người cao tuổi.
2. Chữa
xuất huyết ở dạ dày, phổi:
Tổ bọ ngựa sao vàng, tán bột; bạch cập (15 g) sắc lấy 100
ml. Ngày 3 lần, mỗi lần 3 g tổ bọ ngựa uống với nước bạch cập.
3. Chữa
hóc xương cá:
Tổ bọ ngựa cây dâu (30 g) giã nhỏ, sắc với giấm uống
(Tài liệu nước ngoài).
4. Chữa
đái dầm:
Tổ bọ ngựa (12 g), đảng sâm (12 g), phá cố chỉ (12
g), ích trí nhân (8 g), thỏ ty tử (8
g), ba kích (8 g) sắc uống.
5. Chữa bạch đới, khí hư:
Tổ bọ ngựa cây dâu tẩm rượu, sao khô, tán nhỏ, mỗi lần
uống 8
g với nước gừng.
6. Chữa
mẩn ngứa:
Cả con bọ ngựa sấy khô, tán bột, rắc xoa. (Kinh nghiệm
của các thổ dân Costa Rica). .
Ghi chú:
Nhiều nước đã xếp bọ ngựa vào loại côn trùng hiếm, cần
được bảo vệ.
0 Comment:
Post a Comment