BỌ HUNG
Tên khoa học:
Catharsius molossus L.; Họ Bọ hung
(Geotrupidae).
Tên nước ngoài:
Beetle (Anh),
scaxabée (Pháp).
Mô tả:
Loài côn trùng cánh cứng, cơ thể dài 3-4 cm, màu đen,
hình bầu dục hoặc gần vuông, mặt lưng hơi gồ lên, mặt bụng phẳng, hai mặt đều
trơn nhẵn và sáng bóng. Đầu bẹt có sừng lồi nhọn ở giữa đỉnh. Cánh trước cứng
chỉ phủ kín mặt lưng, làm nhiệm vụ bảo vệ; cánh sau rất mỏng dạng màng xếp dưới
cánh cứng. Râu đầu hình lá có nhiều đốt. Chân trước có gai như răng cưa dùng để
đào bới.
Phân bố, sinh thái:
Bọ hung có ở các nước Đông Nam Á, Trung Quốc, Nhật Bản.
Ở Việt Nam, nó thường sống gần những nơi nuôi gia súc như trâu, bò, ngựa, ăn phân
của những con vật này và dùng chân sau đùn phân thành viên, rồi tha về tổ. Đẻ
trứng trong đất, trứng nở thành sâu. Sâu non ăn rễ cây, chồi gốc. Giữa năm
2002, ở Thanh Hóa, nhiều hecta ruộng mía đã bị bọ hung triệt phá nghiêm trọng.
Bộ phận dùng:
Bọ hung, tên thuốc trong y học cổ truyền là khương lang, được
bắt vào mùa hè, đập chết hoặc dùng nước nóng giết chết, bỏ đầu, chân, cánh, rồi
dùng sống, nướng chín hoặc đốt thành than.
Tính vị, công năng:
Bọ hung có vị mặn, tính lạnh, có độc, có tác dụng chống sài
giật, trừ độc, tán ứ, rút gai dằm, tên, đạn.
Công dụng:
Theo lài liệu cổ (Nam dược thần hiệu), bọ hung đốt tồn tính,
tán nhỏ, uống mỗi lần 4 g với nước tiểu trẻ em chữa lam chướng, sốt rét; nếu uống
với rượu vào lúc đói lại chữa kiết lỵ. Để chữa chứng kinh giản, phát cuồng, trẻ
em sài giật, mụn nhọt, táo bón, lấy bọ hung (1 con) đã nướng chín, sắc với 200
ml nước còn 50 ml, uống trong ngày. Dùng ngoài, bọ hung tán nhỏ, trộn với giấm,
đắp chữa mụn lở. Bọ hung (1 con) đốt tồn tính tán bột; cho bột này cùng với dầu
vừng hoặc dầu lạc (50 ml) vào một củ ráy to đã khoét bỏ ruột. Nấu nhừ thành
cao. Để nguội, bôi ngày 1-2 lần chữa chốc đầu. Bột bọ hung đốt tồn tính trộn với
bột băng phiến, rồi hòa với giấm bôi lại chữa trĩ, lòi dom, tràng nhạc. Để rút
mũi tên cắm vào da thịt, dùng bọ hung (hoặc bọ ngựa) 1 con, giã nát, trộn với nửa
hạt ba đậu tươi đã bóc vỏ, sao qua, tán nhỏ, đắp vào vết thương, một lát sau hết
đau. Khi thấy ngứa nhiều, nhổ mũi tên ra, rồi lấy hoàng liên và quán chúng sắc
nước để rửa, sau cùng, lấy sáp ong nấu với dầu vừng thành cao mà đắp là khỏi.
Theo kinh nghiệm dân gian, để lấy mảnh đạn ghim trong vết
thương, lấy bọ hung phối hợp với lá bồ cu vẽ, lá vông vang, rau muống, củ hành
giã nhuyễn vói xôi nếp hoặc bọ hung (1 con, đốt thành than), lá gió giấy hoặc
lá ớt rừng (1 nắm, phơi khô, tán bột) trộn đều, tẩm rượu, đắp đối diện với vết
thương bị mảnh đạn để làm thuốc tống hay đẩy. Rồi lấy hạt đỗ xanh, rau muống,
rau húng dũi, lá vông vang, lá ké hoa vàng, vỏ cây chân chim, giã nát, đắp thẳng
vào vết thương làm thuốc rút hay hút.
Theo tài liệu nước ngoài, bọ hung sao vàng, tán bột, uống mỗi
lần 1 - 2 g, ngày 2 - 3 lần, chữa sỏi đường tiết niệu.
0 Comment:
Post a Comment