BÁCH XÙ
Tên khoa học:
Juniperus chinensis L.; Họ Bách (Cupressaceae).
Tên đồng nghĩa:
Sabina
chinensis (L.) Antoine
Tên khác:
Viên bách, tùng xù, bách tròn, cối tía, tử cối.
Tên nước ngoài:
Genièvre (Pháp).
Mô tả:
Câv gỗ, thường
xanh. Thân hình trụ, cành nhỏ tròn hoặc hơi vuông. Lá mọc áp sát vào cành, hình
kim ở cành non và dạng vảy ở cành già. Lá dạng vảy, xếp dày đặc, dầu tù, có tuyến
ở gân giữa lá.
Cụm hoa là
những nón, đực và cái riêng; nón đực hình trứng dài, nón cái hình cầu.
Nón quả gần
tròn, đường kính 6 - 8 cm, khi chín màu nâu, phủ phấn trắng; hạt 1 - 4, thường
là 2 - 3.
Phân bố, sinh thái:
Chi Juniperus L. có khoảng 50 loài, phân bố
chủ yếu ở vùng ôn đới Bắc bán cầu. Ở Việt Nam, chi này chỉ có 2 loài được trồng
làm cảnh.
Bách xù phân
bố ở vùng Đông Bắc Á, bao gồm Mông Cổ, Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản. Cây
đã được nhập trồng cả một số nước khác ở châu Á, châu Âu và châu Mỹ. Ở Việt
Nam, bách xù được nhập nội vào thời gian nào chưa rõ, song có những cây trồng ở
Tam Đảo, Hà Nội và một số địa phương khác đã có khoảng 100 năm tuổi.
Bách xù là
cây hơi chụi bóng hoặc có thể trồng được cả những nơi trống trải (vùng núi cao),
sinh trưởng, phát triển tốt trong điều kiện có khí hậu ẩm mát. Cây mọc tự nhiên
ở Trung Quốc và Mông cổ vẫn tồn lại được trong mùa đông lạnh khắc nghiệt. Bách
xù trồng ở Tam Đảo xuất hiện nón sinh sản vào khoảng tháng 3 - 4. Chưa thấy cây
con mọc từ hạt. Gần đây, người ta đã tạo được nhiều cây con từ cành bánh tẻ bằng
cách sử dụng các chất kích thích ra rễ.
Bộ phận dùng:
Cành, lá và
vỏ thân.
Thành phần hóa học:
Lá bách xù
chứa deoxypodophylotoxin, chất này có tác dụng độc đối với tế bào.
Theo Fang
Jim Min và cộng sự, 1991, lá bách xù có 16 diterpen, trong đó có abieta-8, 11,
13- trien-7β- ol, 13 β-hydroxy-7-oxoabiet-8 (14)-en-19, 6 β-olid (juniperolid),
6, 13β-dihydroxy-7-oxoabieta- 5, 8 (14)-dien-19-al (jumperal), 15-oxo-16-norabieta-7,
13-dien-19, 6β- olid (norjuniperolid), 13β, 14p-epoxy-8-oxo-7, 8-secoabietan-7,
19-olid (secojuniperolid) và 11β-hydroxy-14-oxochinan-19-al (chinaxoxal) và
umbelliferon, 2 - (3, 4-methylendioxyphenyl) propan-1, 3-diol và 13 lignan. Các
lignan bao gồm meso-secoisolariciresinol, 3, 4-methylendioxy- 3', 4'
-dimethoxylignan-9', 9-olid, hibalacton, isohibalacton, 7-oxohimokinin,
7-hydroxyhinokinin, 7-acetoxyhinokinin, (+) - xarithoxylol, dihydrodehydro
diconiferyl alcol, 3 - methoxy - 8, 4' - oxyneoligna-3', 4, 7, 9, 9' - peintol,
(8S)-3-methoxy-8, 4’ - oxyneoligna- 8', 4, 9, 9’- tetraol, (7S, 8S - 3 -
methoxy- 3, 7- epoxy - 8, 4' - oxyneolignan - 4', 9, 9' - triol và isoraer 7R,
8S tương ứng.
Cũng theo Fang
Jim - Min và cộng sự, 1996, lá còn có 19-norabieta- 8, 11, 13 trien-4-yl
fonnat, 18-norabieta-8, 11, 13-trien-4-hydroperoxyd, 19-norabieta-8, 11, 13-trien-4-
hydroxyperoxyd, 4-hydroxy-18-norabieta-8, 11, 13-trien-7- on, 4-hydroxy-19-
norabieta- 8, 11, 13-trien-7-on, 7α-hydroxy-19-norabieta-8, 11, 13-trien-7-on,
7α-hydroxy-19 - laorabieta- 8, 11, 13-trien-4-hydroperoxyd, 19 - norabieta-7,
13 - dien - 4 - ol và 13β, 14p - epoxy-4-hydroxy-19- norabieta-7-en-6-on.
Theo Wang
Chengzhang và cộng sự, 1994, lá có polyprenol acetat.
Tinh dầu từ
lá bách xù có cedrol, thujosen và cedrol.
Cành và lá
có acid sandaracopimaric, acid isocupressic, 12-hydroxy-6,1-secoabieta- 8, 11,
13- trien, 6,1 - dial.
Vỏ thân thứ J. chinensis L. var. kaizuca có acid 13-hydroxycupressic và
acid cupressic.
Gỗ có một
bisnorditerpen, 14 diterpen và 12 sesquitcrpen, trong đó có acid
15-hydroxylabda-8 (17), 11E, 13E-trien-19- oic.
Rễ chứa
dimer sesquiterpen chinensiol, nhiều diterpen trong đó có tolarol, totarolon,
7-oxotarol, isolotarolenon, 1-oxo-3β-hydroxytotarol, acid 7β-hydroxy-andaracopimaric.
Tác dụng dược lý:
1. Tác dụng
chống u: Cao chiết cồn cành lá bách xù và một số thành phần như acid sandaracopimaric,
acid isocupressic, 12-hydroxy-6,7-secoabieta-8, 11, 13-trien-6, 7-dial, một số
dẫn chất của podophyllotoxin có tác dụng độc, ức chế sự phát triển của tế bào
ung thư bạch cầu P-388 và tế bào sarcoma ở chuột nhắt trắng.
2. Tác dụng
gây sẩy thai: Cao bách xù gây sẩy thai là do tác dụng độc toàn thân của cây, chứ
không phải là do tác dụng đặc hiệu trên tử cung. Vì vậy không nên dùng bách xù
để gây sẩy thai.
3. Tác dụng
độc: Tinh dầu bách xù có tác dụng kích ứng cục bộ, bôi trên da lâu ngày sẽ gây
viêm da. Nếu uống quá liều sẽ gây phản ứng trên đường tiêu hóa như buồn nôn,
nôn, đi ngoài, đau bụng và có thể tử vong.
Tính vị, công năng:
Bách xù có vị
đắng, cay, thơm, tính ấm, có độc, có tác dụng khu phong, tán hàn, hoạt huyết, tiêu
thũng, giải độc, lợi niệu.
Công dụng:
Bách xù được
dùng chữa cảm mạo phong hàn, co quắp, thổ tả, phong thấp, đau nhức xương, hoàng
đản. Ngày dùng 30-40g cành lá, sắc uống; hoặc uống tinh dầu, 10-15 giọt với đường,
ngày 2 - 3 lần; kết hợp xoa ngoài. Lá bách xù tươi, giã nát, đắp chữa mày đay,
nhọt độc.
Bách xù thường
được trồng làm cảnh, hạt ép lấy dầu nhờn. Cành lá được dùng cất tinh dầu, mạt
cưa của cây và gỗ thân cây để làm hương thắp.
Bài thuốc có bách xù:
1. Chữa phong thấp, xương khớp đau nhức:
Bách xù, lõi
thông, huyết đằng, mộc thông, mỗi vị 10-20g, sắc uống.
2. Chữa vàng da do sưng gan hoặc viêm gan mạn:
Lõi cây bách
xù, thái miếng mỏng, phơi khô, 30g, sắc uống (Bách gia trân tàng).
0 Comment:
Post a Comment