Search This Blog

BÁCH BỘ chữa ho

BÁCH BỘ



Tên khoa học:

Stemona tuberosa Lour.; Họ Bách bộ (Stemonaceae).

Tên khác: 

Củ ba mươi, dây dẹt ác, slam slip lạc, mằn sòi (Tày), bẳn sam sip (Thái), pê chầu chàng (H' Mông), mùi sấy dòi (Dao), hơ linh (Ba Na).

Tên nước ngoài: 

Stémona (Pháp).

Đặc điểm thực vật (Mô tả):

Dây leo bằng thân quấn, dài 6 - 8 m có khi hơn. Rễ củ nhiều, mập, nạc, hình trụ, mọc thành khóm dày, dài 15 - 30cm. Thân nhẵn, hình trụ, màu lục nhạt, hơi phình lên ở những mấu. Lá mọc đối hoặc so le, có cuống dài, gốc hình tim, đầu thuôn nhọn, có 7 - 13 gân chính hình cung, chạy từ cuống lá đến đầu lá, có những gân phụ ngang, nhỏ, song song, sít nhau rất đặc sắc.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá, có cuống dài 2 - 4 cm, gồm 1 - 2 hoa màu vàng lục, mặt trong màu đỏ tía, có mùi hôi; bao hoa gồm 4 bộ phận giống nhau, hẹp ngang, thuôn dài khoảng 4cm; 4 nhị, chỉ nhị ngắn.
Quả nang, hình trứng thuôn, có 5 - 8 hạt.
Mùa hoa : tháng 3 - 5; mùa qủa: tháng 6-8.
Nhiều loài khác cũng được dùng:
1. Bách bộ lá nhỏ - Stemona pierrei Gagnep.
Dây leo. Thân mềm có cạnh. Lá mọc so le, có 7 gân chính. Hoa màu đỏ sẫm, dài khoảng 1cm.
2. Bách bộ nam - Stemona cochinchinensis Gagnep.
Thân đứng không leo, có khía. Lá mọc so le, lá phía dưới tiêu giảm thành vảy, lá phía trên hình trái xoan - tam giác. Gân chính: 9. Hoa nhỏ: 2-3 cái.
3. Bách bộ đứng- Stemona collinsae Craib
Thân đứng, phân nhánh, sau leo, có cạnh khía, màu đỏ. Lá mọc so le, lá phía dưới hình vảy, lá phía trên hình tim dài. Gân chính: 9-13, màu đỏ. Hoa nhỏ thường đơn độc, ít khi 2.

Phân bố, sinh thái:

Stemona Lour, là một chi nhỏ, gồm các dại diện là dây leo hoặc cây thảo, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới châu Á. Ở Việt Nam có 5 - 6 loài đều có rễ củ hình chùm; một số loài tương đối hiếm gặp nên đã được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam. Loài Stemona tuberosa Lour. có phạm vi phân bố rộng rãi nhất, bao gồm hầu hết các tỉnh miền núi (trừ vùng cao tren 1000m) , trung du và thậm chí có cả ở vùng ven biển và đồng bằng. Những tỉnh có nhiều bách bộ ở Việt Nam là Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hòa Bình và Thanh Hoá..
Cây cũng phân bố ở các nước khác như : Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan, Lào, Campuchia, Trung Quốc...
Bách bộ thuộc loại cây ưa ẩm, ưa sáng và có thể hơi chịu bóng; thường mọc nơi đất ẩm, còn khá màu mỡ ở rừng thứ sinh ven đồi, bờ nương rẫy; cây còn mọc lần với nhiều cây cỏ khác ở rừng núi đá vôi ẩm. Bách bộ mọc ở nơi đất tơi xốp có rễ củ nhiều và to. Năm 1977 tại huyện Ninh Hòa (Khánh Hoà), đoàn điều tra dược liệu đã thu được một khóm bách bộ, có bộ rẽ củ nặng hơn 7kg. Cây bách bộ mọc từ hạt sau hai năm thì thì có hoa quả. Số lượng quả trên mỗi cây không nhiều nhưng mỗi quả có nhiều hạt. Xung quanh cây mẹ thường thấy cây con mọc từ hạt. Sau khi bị chặt phá, phần còn sót lại vẫn còn khả năng tái sinh.
Nguồn trữ lượng bách bộ ở Việt Nam tương đối phong phú. Trước đây thường được khai thác thu mua. Cây đang bị thu hẹp mạnh vùng phân bố do nạn phá rừng. Có thể trồng được bằng hại hoặc phần gốc sau khi đã thu hết củ.

Cách trồng:

Bách bộ ưa khí hậu ôn hoà, ưa bóng khi còn nhỏ, thích đất pha cát, nhiều mùn, ẩm mát.
Có thể trồng bách bộ bằng cách gieo hạt trong vườn ươm rồi đánh cây con đi trồng hoặc trồng ngay bằng chồi gốc.
Vào khoảng tháng 8 - 9, thu lấy quả chín đem phơi ở chỗ thoáng gió vài ngày cho vỏ quả tách ra, gom lấy hạt, sàng sảy sạch vỏ quả, phơi thật khô và bảo quản nơi khô ráo. Đến tháng 3 - 4, đem hạt gieo trong vườn ươm và mùa xuân năm sau, đánh cây con đi trồng.
Còn có thể dùng chồi gốc để trồng. Sau khi thu hoạch rễ củ làm thuốc, những đoạn gốc đầu củ mang chồi được tách ra đem trồng. Cách này cho hệ số nhân giống thấp nhưng không phải qua giai đoạn vườn ươm.
Vườn ươm hạt cần chọn nơi đất ẩm, râm mát và thoát nước. Sau khi làm đất tơi nhỏ, lên luống cao 20cm, rộng 70 - 80cm, rạch thành hàng ngang cách nhau 20 cm rồi tiến hành gieo hạt, hạt nọ cách hạt kia 2 - 3cm. Dùng tro bếp hoặc phân chuồng hoai mục rắc lên trên hạt một lớp dày 1 - l,5cm, rồi lấp đất nhỏ dày chừng 1 - l,5cm, cuối cùng phủ rơm, rạ hoặc cỏ khô lên mật để giữ ẩm và tránh đóng váng. Vườn ươm cần dược làm cỏ, tưới ẩm thường xuyên.
Mỗi kilogam hạt có khoảng 4 vạn hạt, tỷ lệ nảy mầm thường đạt 50 - 55%. Khoảng 2,5 - 3kg hạt đủ gieo cho 500 m2 vườn ươm.
Ruộng trồng bách bộ nên chọn khu đất thoát nước ven đồi, có tầng canh tác sâu tiện tưới tiêu. Khi trồng, cần làm đất tơi nhỏ, bổ hốc sâu 10 - 15cm với khoảng cách 25x50cm, bón lót một ít phân chuồng hoại mục và trồng mỗi hốc một cây, sau đó tưới nước.
Khi bách bộ mọc cao khoảng 20cm, cần cắm giàn cho cây leo, có giàn, cây sinh trưởng tốt hơn và đỡ công chăm sóc.
Cây con trong vườn ươm có thể tưới thúc bằng nước phân chuồng hay đạm sulfat pha loãng. Cây ở ruộng sản xuất có thể bón thúc bằng các loại phân chuồng ủ mục sau khi làm cỏ, mỗi năm vài ba lần vào thời kỳ cây sinh trưởng mạnh (tháng 5 đến tháng 8)
Ngoài ra, còn có thể gieo thẳng hạt không qua vườn ươm. Mỗi hốc gieo 4 - 5 hạt. Sau khi cây mọc, tỉa bớt, chỉ để lại mỗi hốc một cây khỏe nhất.
Hiện nay chưa phát hiện được sâu bệnh gì đáng kể.

Bộ phận dùng:

Rễ đã phơi khô hoặc sấy khô. Theo Dược điển Việt Nam II, Tập 2, đào rễ khi trời khô ráo, rửa sạch đất cát, cắt bỏ hai đầu, đem đồ vừa chín hoặc nhúng nưóc sôi. Rễ nhỏ để nguyên, rễ to có thể bổ đôi, rồi phơi nắng hoặc sấy ở nhiệt độ 50 - 60°. Rễ bách bộ cong queo, dài lừ 5cm trở lên, đường kính 0,50 - l,00cm. Đầu trên hơi phình to, đầu dưới thuôn nhỏ. Mặt ngoài vàng nâu, có nhiều nếp nhăn.
Theo cuốn Phương pháp bào chế đông dược, sau khi rửa sạch, ủ mềm, rút bỏ lõi, thái mỏng, phơi khô (dùng sống). Tẩm mật một đêm, rồi sao vàng (dùng chín).

Thành phần hóa học:

Rễ bách bộ chứa nhiều alkaloid: stemonin, tuberostemonin, neotuberostemonin, oxotuberostemonin, isotuberostemonin, hypotuberostemonin, stenin, stemotinin, isostemotinin, stemotuberin, isostemonin, tuberostemoninol, stemoninoamid, bisdehydroneotuberostemonin.
Đáng chú ý là có hai chất mang tên stemonin: một chất 17C do Suzuki chiết xuất, một chất 22C do Lobstein và Grumbach năm 1932. Chất này được Phạm Thanh Kỳ và cộng sự (1993) xác định là tuberostemonin L - G.
Theo Dược điển Việt Nam II, Tập 3, hàm lượng alkaloid toàn phần trong rễ bách bộ cần đạt là 0,15% tính theo tuberostemonin L - G.
Ngoài ra, rễ bách bộ còn chứa 2,3% glucid, 9,25% protid, 0,84% lipid, nhiều acid hữu cơ (acid malic, acid oxalic, acid succinic, acid acetic, acid formic) và 3 dẫn chất bibenzyl (3, 5- dihydroxy-4-methylbibenzyl ; 3, 5-dihydroxy-2'-methoxy-4-methylbibenzyl và 3-hydroxy, 2', 5-dimethoxy-2-methylbibenzyl).

Tác dụng dược lý:

Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh trong y học cổ truyền, bách bộ được dùng chữa ho, trị giun và diệt sâu bọ là đúng đắn.
1. Tác dụng chữa ho: stemonin có tác dụng làm giảm tính hưng phấn của trung tâm hô hấp động vật, ức chế phản xạ ho, do đó có tác dụng trị ho.
2. Bách bộ đã dược thí ngiệm chữa bệnh lao hạch có kết quả tốt.
3. Tác dụng trị giun và diệt côn trùng; ngâm giun vào dung dịch 0,15% stemonin, giun sẽ tê liệt sau 5-10phút. Nếu kịp thời lấy giun ra khỏi dung dịch, giun sẽ hồi phục lại. Tiêm dung dịch stemonin sulfat (3mg) vào ếch nặng 25g, có thể làm cho ếch tê bại, sau 12 giờ thì bình phục. Dùng rượu thuốc bách bộ 1/10 trong rươụ 70°, ngâm hay phun vào con rận, rận sẽ chết sau 1 phút. Nếu ngâm rệp, con vật sẽ chết mau chóng hơn
4. Tác dụng kháng khuẩn: bách bộ có tác dụng diệt vi khuẩn ở ruột già và kháng vi khuẩn của bệnh lỵ, phó thương hàn.
Nước sắc vỏ rễ bách bộ có những tác dụng dược lý sau:
1. Nước sắc 10 - 50% rễ bách bộ có tác dụng làm liệt giun (liệt mềm) sau thời gian từ 8 - 20giờ. Giun đã bị liệt do tác dụng của thuốc không hồi phục được lại sau khi đã rửa sạch thuốc Bách bộ có tác dụng làm tan rã chất kilin bao bọc xung quanh giun.
2. Với liều vừa phải, bách bộ không ảnh hưởng trên họat động co bóp của tim, huyết áp, hoạt động co bóp của ruột và tử cung và không gây độc với động vật thí nghiệm.
3. Dung dịch alkaloid toàn phần chiết từ rễ cũng như từ lá và thân cây bách bộ đều có tác dụng long đờm rõ rệt trên chuột nhắt trắng và làm liệt cơ giun đũa ở lợn. Do đó có thể sử dụng cả lá, rễ và thân cây làm thuốc trị ho và trị giun.
Rễ bách bộ có tác dụng kháng khuẩn đối với Mycobacterium tuberculosis. Thuốc ức chế trung tâm hô hấp mà không ảnh hưởng tới tim. Cao cồn của rễ có tác dụng diệt chấy rận mà không độc và không kích ứng đối với người. Dung dịch 0,15% alkaloid stemonin làm tê liệt giun đất. Sau khi lấy ra khỏi dung dịch, giun hồi phục lại. Thuốc có tác dụng trên tim, lúc đầu làm tim bị kích thích, sau đó bị tê liệt.

Tính vị, công năng:

Bách bộ có vị ngọt, đắng, tính hơi ấm, có tác dụng nhuận phế, sát trùng

Công dụng:

1. Chữa ho: Ngày dùng 4 - 12g, dưới dạng thuốc sắc, cao, viên hoặc bột.
2. Chữa giun: ngày uống 7 - 10g, dưới dạng thuốc sắc, uống sáng sớm, lúc đói, trong 3 ngày liền sau đó tẩy.
3. Diệt côn trùng: nước sác bách bộ, cho thêm ít đường, ruồi ăn phải chết lới 60%. Dung dịch 1/20 giết chết bọ gậy 100%. Rắc bột bách bộ vào hố phân, giòi chết 100%
4. Đốt rễ bách bộ, hơ khói để diệt ruồi muỗi, bọ chó, rận. Nước sắc rễ bách bộ dùng gội đầu, ngâm quần áo có tác dụng diệt chấy rận.
Theo lài liệu nước ngoài, rễ bách bộ được dùng điều trị lao phổi và ho.

Kiêng kỵ:

Tỳ vị hư yếu không dùng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Viện Dược liệu (2004), “Cây thuốc và động vật làm thuốc Việt Nam”, tập II, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật

comment 0 Comment:

Post a Comment

 
© Dược liệu | Digital Millennium Copyright Act (DMCA) ; Email: duoclieuvn@yahoo.com