BÁCH BỆNH
Tên khoa học:
Eurycoma longifolia Jack.; Họ: Thanh thất (Simaroubaceae).
Tên khác:
Lồng bẹt, bá bịnh, bá bệnh, mật nhơn, mật nhân, tho nan (Tày).
Đặc điểm thực vật (Mô tả):
Cây nhỡ, cao
2 - 8 m, ít phân cành. Lá kép lông chim lẻ, mọc so le, gồm 21 - 25 lá chét
không cuống, mọc đối, hình mác hoặc bầu dục, gốc thuôn, đầu nhọn, mặt trên xanh
sẫm bóng, mặt dưới có có lông màu trắng xám; cuống lá kép màu nâu đỏ.
Cụm hoa mọc ở
ngọn thành chùm kép hoặc chùy rộng, cuống có lông màu gỉ sắt; hoa màu đỏ nâu;
đài hoa chia thành 5 thùy hình tam giác có tuvến ở lưng; tràng hoa 5 cánh hình
thoi cũng có tuyến; nhị 5 có lông dày và hai vảy ở gốc; bầu có 5 noãn, hơi dính
nhau ở gốc, đầu nhuỵ rời.
Quả hạch,
hình trứng, nhẵn, có rãnh dọc, khi chín màu vàng đỏ, chứa một hạt.
Cây đa dạng
và có nhiều thứ.
Mùa hoa:
tháng 1 - 2 ; mùa quả: tháng 3 - 4
Bá bệnh: Eurycoma longifolia Jack.
Phân bố, sinh thái:
Eurycoma Jack, là chi nhỏ gồm những đại diện là cây bụi hoặc cây gỗ nhỏ, phân bố
chủ yếu ở vùng nhiệt đới Đông Nam Á và Nam Á. Vùng Đông Nam Á có 3 loài và một
vài dưới loài, trong đó đáng chú ý nhất là loài bách bệnh phân bố rộng rãi từ
Myanmar đến các nước Đông Dương, Thái Lan, Malaysia, đảo Sumatra, Borneo
(Indonesia) và Philippin. Loài này còn xuất hiện ở Nam Trung Quốc, Ấn Độ và một
vài nước khác.
Ở Việt Nam,
bách bệnh phân bố rải rác ở các tỉnh vùng núi thấp (dưới 1000m) và trung du.
Các tỉnh Tây Nguyên và miền Trung gặp nhiều hơn ở các tỉnh phía bắc. Cây có thể
chịu được bóng nên thường gặp ở dưới tán rừng còn tương đối nguyên sinh, rừng
thứ sinh, và đôi khi cả ở đồi cây bụi ở vùng trung du. Cây mọc ở vùng đồi thường
có chiều cao thấp, trong khi đó những cây mọc dưới tán rừng ẩm có thể cao tới 5
hoặc 7 m, hoa quả nhiều. Bách bệnh ra hoa quả nhiều, nhưng lượng cây con tái
sinh từ hạt hạn chế, do quả chín rụng vào mùa mưa bị lũ cuốn trôi mất. Trong tự
nhiên gặp nhiều cây chồi, điều đó chứng tỏ bách bệnh có khả năng tái sinh tốt
sau khi bị chặt phá.
Bộ phận dùng:
Vỏ thân, rễ,
lá phơi hoặc sấy khô.
Thành phần hóa học:
Trong vỏ và
gỗ bách bệnh người ta đã chiết được các chất sau;
• Các hợp chất
quassinoid: eurycomalacton, 6-α-hydroxyeurycomalacton, longilacton, 5, 6-dehydro-eurycomalacton,
14, 15-β-dihydroxyklaineanon, 11-dehydroklaineanon, các quassinoid có tác dụng
diệt vi trùng sốt rét Plasmodium
falcifarum đã kháng thuốc.
• Các hợp chất
triterpen loại lirucalan: niloticin, dihydroniloticin, piscidinol A,
bourjotinolon A, episapelin A, melianon và hyspidron.
• Từ rễ đã
phân lập được 3 quassinoid: eurycoinanol, eurycomanol 2-O-β-D-glucopyranosid và
13β, 18-dihydroeurycomanol.
• Các alkaloid
loại canthin-6-on được phân lập từ vỏ và gỗ:
9,
10-dimethoxycanthin-6-on, 10-hydroxy-9-methoxy-canthin-6-on, 11
hydroxy-10-methoxy- canthin-6-on, 5, 9-dimethoxycanthin-6-on và 9-methoxy-3
methyl-canthin-5, 6 - dion.
Ngoài ra còn
có các alkaloid carbolin.
• Từ vỏ cây
bách bệnh ở miền Đông Nam Bộ Việt Nam đã xác định được thành phần hai chất đắng
euricomalacton và 2. 6 dimethoxybenzoquinon.
Ngoài ra,
còn campestrol, và β-sitosterol.
Tác dụng dược lý:
Bách bệnh có
những tác dụng dược lý đã được chứng minh như sau:
- Cao chiết
từ bách bệnh có tác dụng kháng ký sinh trùng sốt rét trong thử nghiệm nuôi cấy
in vitro.
- Bách bệnh
có tác dụng tăng dục, có mối tương quan giữa hoạt tính kích thích sinh dục nam
và lượng nội tiết tố sinh dục nam trong huyết thanh, thân và rễ bách bệnh làm
tăng lượng testosteron trong huyết thanh động vật, rễ làm tăng testosteron nhiều
hơn thân cây.
- Một chế phẩm
thuốc gồm 3 dược liệu: bách bệnh, trâm bầu và xấu hổ có độc tính cấp diễn và
trường diễn rất thấp. Thuốc có tác dụng lợi mật rõ rệt và không làm thay đổi
thành phần của mật ở chuột lang. Thuốc làm tăng thải trừ BSP của gan thỏ so với
đối chứng.
- Chế phẩm thuốc
này có tác dụng làm chậm quá trình hư biến của gan chuột cống trắng gây nên do
carbon tetraclorid. Nó cũng làm tăng sự tái tạo của tế bào gan chuột nhắt trăng
trong mô hình gây thương tổn gan thực nghiệm.
- Áp dụng
trên bệnh nhân có chỉ định điều trị lợi mật, chế phẩm gồm bách bệnh, trâm bầu
và xấu hổ đã làm giảm bilirubin - máu một cách có ý nghĩa.
Công dụng:
Theo kinh
nghiệm dân gian, vỏ thân bách bệnh được dùng chữa các trường hợp ăn uống không
tiêu, nôn mửa, đầy bụng tiêu chảy, gần như vị hậu phác, còn dùng chữa sốt rét,
giải độc do uống nhiều rượu và chữa lưng đau mỏi do thấp, vỏ phơi khô tán bột,
ngâm rượu hay làm thành viên, hoặc sắc uống. Ngày dùng 6 - 12g. Quả chữa lỵ. Rễ
chữa ngộ độc và tẩy giun. Lá nấu nước tăm chữa lở ghẻ.
Kiêng kỵ:
Phụ nữ có thai không nên dùng.
Theo kinh
nghiệm dân gian Indonesia, nước sắc của lá hoặc vỏ thân bách bệnh được coi là vị
thuốc cổ truyền tốt nhất để chữa sốt rét. Có ý kiến cho là nó có hiệu lực tương
đương với viên nén cloroquin trong điều trị sốt rét. Nước sắc lá dược dùng làm
thuốc chữa đau lưng, đau bụng âm ỉ, Nhiễm khuẩn đường tiết niệu và những rối loạn
về khớp.
Nước sắc lá
bách bệnh cùng với lá một loài lấu (có thể là Psychotria malayana) được dùng uống chữa sốt, với lá một loài Uncaria điều trị tiểu tiện ra máu, với
lá cây Ngoi điều trị những rối loạn về khớp.
Bài thuốc có bách bệnh:
1. Ôn kinh trợ dương điều khí thang, chữa bại liệt nửa người bên phải, do dưỡng khí suy, phong tê, mình lạnh tê dại:
Bách bệnh
4g, rễ đinh lăng 10g, xấu hổ sao 8g, dây đau xương 8g, đậu chiều sao 8g, dây trâu
cổ 8g, cây thần sa 6g, bạch hồ tiêu (quả chín phơi khô, sát bỏ vỏ ngoài) 5g, quế
chi 5g, gừng sống 3g. sắc nước uống.
2. Tư bô âm huyết thang, chữa âm huyết suy kém, tê bại nửa người bên phải, nóng đau:
Bách bệnh
6g, đậu đen 12g, hà thủ ô đỏ 10g, dây gùi 8g, huyết rồng 8g, rau muống biển 8g,
rễ nhàu 8g, rễ ô môi 8g, rễ cỏ xước 8g, tang chi 8g, dây ký ninh 2g. Sắc nước uống.
3. Bá ứng tiêu hạ tán, chữa đau bụng, ăn không tiêu, đầy hơi chướng bụng:
Bách bệnh
50g, vỏ quýt 100g, hoắc hương 100g, bồ bồ 100g, dây mơ 100g, dây rơm 100g, cam
thảo nam 100g, hậu phác 100g, củ sả 50g, củ gấu 50g, tiêu lốt 50g.
Các vị tán
nhỏ, ngày uống 12g (người lớn), trẻ em tùy theo tuổi mà quy định liều dùng.
0 Comment:
Post a Comment