SẢNG
Tên khoa học:
Sterculia lanceolata Cav.; Họ Trôm
(Sterculiaceae).
Tên khác:
Sảng lá kiếm, quả thang, trôm thon, trôm mề gà.
Tên nước ngoài:
Serculie lancéolée (Pháp).
Tên đồng nghĩa:
Helicteres undulata
Loureiro; Sterculia balansae Aug.
Candolle.
Đặc điểm thực vật (Mô tả):
Cây nhỏ hay cây nhỡ, cao 3 - 10m. Cành hình trụ,
cành non có lông, cành già nhẵn, có khía dọc, màu xám. Lá mọc so le hình bầu dục
hoặc ngọn giáo, dài 9 - 20 cm, rộng 3,5 - 8cm, gốc tròn, đầu tù hơi nhọn, mặt
trên nhẵn, mặt dưới có ít lông hình sao, gân phụ tạo thành mạng lưới rõ; lá kèm
nhọn, có lôag hình sao, dễ rụng.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành chùm mảnh, dài 4 - 5cm, có
lông mềm hình sao; lá bắc ngắn, hình dải, dễ rụng; hoa nhỏ 1 - 5 trên mỗi
nhánh; đài có lông ở mặt ngoài, mặt trong có chấm, mép có lông mi; tràng 0; hoa
đực có cuống bộ nhị nhẵn, bao phấn xếp hai dãy; hoa cái có bầu hình cầu, nhiều
lông.
Quả kép gồm 4 - 5 đại xếp thành hình sao, màu đỏ, phủ
lông nhung, khi chín quả đại mở, bên trong nhẵn và bóng; hạt 4-9, hình trứng dẹt,
màu đen bóng.
Mùa hoa; tháng 4 - 7; mùa quả: tháng 8 - 10.
Phân bố, sinh thái:
Chi Sterculia
L. có 25 loài ở Việt Nam, trong đó có cây sảng. Sảng phân bố rải rác khắp các tỉnh
miền núi (dưới 600 m), từ Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên đến tận
Tây Nguyên và Ninh Thuận, đôi khi có cả ở trung du. Cây cũng có ở Lào và Nam
Trung Quốc.
Sảng là loại cây ưa sáng, khi nhỏ hơi chịu bóng, thường
mọc ở các loại rừng thứ sinh, ven rừng ẩm hoặc ở quần hệ rừng non phát triển
trên đất sau nương rẫy. Cây rụng lá hàng năm vào mùa đông, lá non mọc vào mùa
xuân, sau đó có hoa, quả chín vào cuối mùa hè. Quả sảng chín tự mở, để lộ các hạt
đen ra ngoài, nhưng chưa rụng xuống đất ngay, nên thường bị một số loài chim đến
ăn. Tuy nhiên, ở dưới gốc cây mẹ vẫn có thể tìm thấy cây con mọc từ hạt. Cây có
khả nàng tái sinh cây chồi sau khi bị chặt.
Bộ phận dùng:
Vỏ cây, lá và hạt (Cortex, Folium et Semen
Sterculiae Lanceolatae).
Thành phần hóa học:
Sơ bộ có chất nhầy, tanin (Đỗ Tất Lợi, 1999).
Công dụng:
Vỏ cây sảng được dùng chữa sưng tấy, mụn nhọt, áp
xe. Mỗi lần 20 - 30g tươi, giã nát với muối đắp. ở Quảng Tây - Trung Quốc, vỏ
cây sắc uống chữa khí hư, bạch đới. Lá tươi giã đắp chữa đòn ngã tổn thương. Hạt
ăn được và được dùng chữa háo khát, nóng phổi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Viện Dược liệu (2004), “Cây thuốc và động vật làm
thuốc Việt Nam”, tập II, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật
0 Comment:
Post a Comment