KINH DỊCH TRỌN BỘ
NGÔ TẤT TỐ (Dịch và chú giải)
NHÀ
XUẤT BẢN VĂN HỌC
TRONG lĩnh vực khảo cứu, dịch
thuật, Ngô Tất Tố là người có những công trình nghiêm túc, như bộ Việt Nam văn
học (Tập I - Lý, Tập II - Trần), các bộ Hoàng Lê nhất thống chí, Đường Thi, Lão
Tử, Mặc Tử, Kinh Dịch... đều được ông dịch và chú giải rò ràng. Trong Kinh Dịch
các yếu tố duy vật, tiến bộ của học thuyết Mặc Địch, các triết lý nhân sinh
trong Kinh Dịch được Ngô Tất Tố trình bày một cách khách quan khoa học. Ông cho
rằng, đây là một cuốn sách lạ trong văn học giới của nhân loại, là bộ sách cổ
triết học phương Đông. Nhưng Kinh Dịch không như Kinh Thi, Kinh Thư, nó là thứ
sách nói hết sự lý vô cùng, vô tận của thiên hạ đời sau, chỉ một hai chữ đá là
một cái đạo lý...
Giới thiệu Kinh Dịch của Ngô Tất
Tố, chúng tôi mong cung cấp một cuốn sách khảo sát giúp bạn đọc hiểu thêm về
văn học cổ Trung Hoa từ thời Phục Hy tới Xuân Thu, Hán, Đường... củng đồng thòi
giúp các nhà nghiên cứu Hán Nho, bộ sách cổ xưa ẩn khuât bao niềm triết lý về
tu, tề, trị, bình và cách xem hình tượng, chiêm đoán để tham khảo, ngẫm suy lẽ
hay.
NHỮNG ĐIỀU Nên biết
(Lời người dịch)
1- LAI LỊCH CỦA KINH DỊCH
Cứ như Tiên nho - từ Hán nho đến
Minh nho, đả nói thì Kinh Dịch bắt đầu ra đòi từ vua Phục Hy, một ông vua về
đời thần thoại trong sử Tàu, cũng gọi Bào Hy, không biết cách đây mấy nghìn hay
mấy vạn năm. Lúc ấy Hoàng Hà có con long mã hiện hình lưng nó có
khoáy thành đảm, từ một đến chín, vua ấy coi những khoáy đó, mà hiểu được lẽ
biến hóa của vũ trụ, mói đem lẽ đó vạch ra thành nét. Đầu tiên vạch một nét
liền, tức là “vạch lẻ” để làm phù hiệu cho khí Dương, và một nét đứt, tức là
“vạch chẵn” để làm phù hiệu cho khí Âm. Hai cái vạch đó
gọi là hai Nghi. Trên mỗi Nghi thêm một nét nửa, thành ra bốn cái “hai vạch”,
gọi là bốn Tượng. Trên mỗi Tượng lại vạch thêm một vạch nửa, thành ra tám cái
“ba vạch”, gọi là tám Quẻ. Sau cùng, vua ấy lại đem Quẻ nọ chồng lên Quẻ kia,
điên đảo khắp lượt, thành ra sáu mươi tư cái “sáu vạch”, gọi là sáu mươi tư Quẻ.
Từ thời Phục Hy đến cuối nhà Thương, Kinh Dịch vẫn chỉ là một mớ vạch liền,
vạch đứt, chưa có tên hiệu chữ nghĩa gì cả.
Sang đầu nhà Chu (Trước lịch Tây
độ hơn nghìn năm), Văn Vương mới đem những quẻ của Phục Hy mà đặt từng tên và
diễn thêm lời ở dưới mỗi quẻ để nói về sự lành dử của cả quẻ
Kế đó, Cơ Đán, tức Chu Công, con
trai thứ Văn Vương, lại theo số vạch của các quẻ mà chia mỗi quẻ ra làm sáu phần,
mỗi phần gọi là một hào, và dưới mỗi hào đều có thêm một hoặc vài âu, để nói về "
Một con thú trong thần thoại, sẽ có lời chua ờ dưới. Tức là quẻ đơn.
Tiếp đến, Khổng Tử lại soạn ra
sáu thứ nữa, là: Thoán truyện, Tượng truyện, Văn ngôn, Hệ từ truyện, Thuyết
quái, Tự quái, Tạp quái, Thoán truyện có hai thiên: Thượng Thoán và Hạ Thoán;
Tượng truyện có hai thiên: Thượng và Hạ Tượng; Hệ từ cũng có hai thiên: Thượng
Hệ và Hạ Hệ; tất cả mười thiên, Tiên nho gọi là “Thập dực” (mười cánh).
Sáu thứ đó tuy đều tán cho ý
nghĩa Kinh Dịch rộng thêm, nhung mỗi thứ có một tính cách.
Thoán truyện thích lời quẻ của
vua Văn, tức là những câu dưới chữ “Lời Thoán nói rằng”.
Tượng truyện thích hình tượng của
các quẻ và các hào, tức là những câu dưói chử “Lời Tượng nói rằng”; thích chung
cả quẻ gọi là Đại Tượng, thích riêng từng hào gọi là Tiểu Tượng.
Văn ngôn chuyện
thích hại quẻ Kiền, Khôn.
Hệ từ nói về đại thể, phàm lệ của
Kinh Dịch và công phu cùng ý nghĩa trong việc làm Kinh Dịch của Văn Vương Chu
Công.
Thuyết quái nói về đức nghiệp,
pháp tượng và sự biến hóa của tám quẻ.
Tự quái nói về những cớ tại sao
quẻ này lại để ở dưới quẻ kia.
Tạp quái nói về những ý vụn vặt
của các quẻ.
Những thiên của Khổng Tử, trước
vẫn tách riêng, không phụ hẳn vào lời quẻ, lời hào của Văn Vương Chu Công. Đến đời
Hán, Phi Trực mới đem Thoán truyện, Tượng truyện và Văn ngôn thuộc về quẻ Kiền
hợp với Kinh Dịch của Văn Vương Chu Công, để thay vào lòi chú thích. Rồi, Trịnh
Huyền lại sáp nhập nốt những câu Văn ngôn của quẻ Khôn và Thoán truyện, Tượng
truyện của các quẻ kia. Từ đó bảy thiên Thoán truyện, Tượng truyện, Văn ngôn mới
xen vào trong các quẻ. Còn ba thiên kia thì đệ phụ riêng ở cuối sách. Tới đời
Tống, Chu Hy làm sách Chu Dịch bản nghĩa đã sắp đặt lại như cũ, nhưng mà người
ta không theo. Những bản được thịnh hành trong hồi gần đây, vẫn là thể tài của
bọn Phí Trực, Trịnh Huyền.
Nay nói chính văn Kinh Dịch, tức
là gồm cả: vạch quẻ của Phục Hy, lời quẻ của Văn Vương, lòi hào của Chu Công,
và Thoán truyện, Tượng truyện, Văn ngôn, Hệ từ truyện, Thuyết quái, Tự quái và
Tạp quái của Khổng Tử.
Đó là theo lời cựu truyền của
tiên nho mà thuật ra, để độc giả biết qua lai lịch Kinh Dịch là vậy.
2 - KHÁI LUẬT CỦA KINH DỊCH
Dù sao mặc lòng, Kinh Dịch vẫn là
một cuốn sách lạ trong văn học giới của nhân loại. Thể tài sách này không giống
một cuốn sách nào. Bởi vì cái gốc của nó chỉ là một nét vạch ngang, đọ
một nét vạch ngang, đảo điên xoay xỏa thành một bộ sách, vậy mà hầu hết chi
tiết ở trong, đều có thể thống luật lệ nhất định, chứ không lộn xộn. Trước khi
đọc, phải biết qua loa những thể thống luật lệ ấy, thì sau mói dễ nhận hiểu.
Vậy nay, theo sự kê cứu của Tiên nho, nên qua ít điều quan hệ trong những thể
thống luật lệ đó, như sau:
Quẻ. - Quẻ có hai thứ: Một là quẻ
đơn, tức là tám quẻ: Kiền, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài, mỗi quẻ có ba
nét ngang,
• Chu Hy gọi là “quẻ ba vạch”.
Hại là quẻ kép, tức là sáu mươi tư quẻ do tám quẻ đơn đắp đổi chồng nhau mà
thành ra, như quẻ Hàm, quẻ Hằng, quẻ Đại tráng, quẻ Gia nhân... các quẻ này mỗi
quẻ có sáu nét ngang, Chu Hy gọi là “quẻ sáu vạch”. Cả hai thứ đó, trong sách
đều gọi là quẻ, thật ra, tính chất rất không giống nhau, quẻ đơn là những yếu
tô làm nên quẻ kép, mà quẻ kép thì là họp thể của hai quẻ đơn chồng nhau.
Hào. - Hào và vạch ngang của quẻ
kép, mỗi quẻ sáu vạch, tức là sáu hào. Thứ tự bắt đầu từ dưới kể lên, dưới nhất
là hào Đầu, đến hào Hai, đến hào Ba, đến hào Tư, đến hào Năm, cuối củng là hào
Trên. Hào cũng chia làm hai thứ: Những hào thuộc nét ngang liền là hào Dương;
những hào thuộc nét ngang đứt, là hào Âm. Ví như quẻ Chuân, do hai quẻ Chấn,
Khảm hợp lại thành mà ra, thì hào Đầu, hào Năm là Dương, hào Hai, hào Ba, Hào
Tư, hào Trên là Am. Ở lời Kinh, hào Dương gọi là hào Chín, hào Âm gọi là
hào Sáu. Ví như quẻ Chuân: hào Đầu gọi hào Chín Đầu (Sơ Cửu), hào Hai gọi là
hào Sáu Hai (Lục Nhị) v.v... Sở dĩ gọi vậy, - theo Tiên nho - là vì
khí
Dương số bảy là trẻ, số chín là
già, khí Âm số tám là trẻ, số sáu là già, già thì biến đổi, chứ trẻ thì chưa
biến đổi, Kinh Dịch chú trọng ở sự biến đổi, cho nên mới lấy số Chín làm tên
hào Dương và lấy số Sáu làm tên hào Âm.
Tính của các quẻ và các hào - Tám
quẻ đơn, mỗi quẻ đều có tính riêng, đại khái, tính Kiền thì mạnh, tính Khôn thì
thuận, tính Chấn thì động, tính Tốn là nhún, tính Cấn hay đậu, tính Đoái hay
đẹp lòng, tính Ly có khi thì sáng, có khi là trống rỗng, tính Khảm có khi là hiểm,
có khi là dầy đặc. Vậy ở sách này, nói mạnh là chỉ về Kiền, nói thuận là chỉ về
Khôn, nói động là chỉ về Chấn, nói nhún là chỉ về Tốn, nói động là chỉ về Cấn,
nói đẹp lòng là chỉ về Đoái, nói sáng hay trống rỗng là chỉ về Ly, nói hiểm hay
dày đặc là chỉ về Khảm - Còn hào, thì hào Dương tất nhiên cứng mạnh thích động
và hay đi lên, hào Âm tất nhiên mềm yếu thích tĩnh và hay đi xuống. Vậy ở sách
này, nói cứng là chỉ về hào Dương, nói mềm là chỉ về
hào Âm.
Tượng của quẻ và hào - Tám quẻ
đơn đều làm biểu hiện cho các vật ở vũ trụ, mỗi quẻ là hình tượng của một hoặc
nhiều vật. Ví như Kiền là tượng trời, lại là tượng con rống; Khôn là tượng đất,
lại là tượng con trâu; Chấn là tượng sấm, lại là tượng cái cây; Khảm là tượng
nước, lại là tượng mây, tượng mưa; Tốn là tượng gió, Ly là tượng lửa; Cấn là
tượng núi; Đoài là tượng chằm... Đó là nói qua, sau đây đọc đến các quẻ sẽ thấy
rõ hon. Còn hào, tự nó không có tượng riêng, vì không chuyên hình dung cho vật
gi, nhưng khi đả hợp nhau lại thành quẻ, thì củng có khi có tượng.
Ví như hào giữa quẻ Khảm là tượng “dày đặc”, bởi vì hào ấy là nét ngang liền,
đứng giữa hai nét ngang đứt, giống như một vật đặc giữa; hay như hào giữa quẻ
Ly là tượng “trống rỗng bên trong”, bởi vì hào này là nét ngang đứt, đứng giữa
hai nét ngang liền, giống như một vật rồng ruột vậy.
Sự áp dụng của hào và quẻ - Trong
Kinh Dịch phần của Văn Vương Chu Công chú trọng ở sự bói toán, phần của Khổng
Tử chú trọng ở cách tu nhân xử thế của từng người, đó là điều rất rõ rệt. Dù là
việc bói toán, dù là cách tu nhân xử thế, củng đều phải lấy nhân sự làm căn cứ,
vì vậy, người ta mới chia mỗi quẻ ra làm ba thứ: thì, ngôi và người.
Thì là thời kỳ. Trong sáu mươi tư
quẻ kép, mỗi quẻ là một thời kỳ. Ví như quẻ Thái tức là thời kỳ hanh thái, quẻ
Bĩ tức là thời kỳ bê tắc, v.v... Trong mỗi quẻ, hào Đầu là đầu thời kỳ, hào
Trên là cuối thời kỳ, còn các hào giữa, cô nhiên là giữa thời kỳ. Đó là nói về
đại khái, chính ra một quẻ có khi không chỉ về một thời kỳ mà chỉ về một công
cuộc, ví như quẻ Tốn, Ích, Tỵ, Tụng v.v... Nhưng
về nghĩa này rất ít.
Ngôi là thứ tự của các hào. Mỗi
quẻ sáu hào, tức là sáu ngôi. Theo lòi chú thích của Tiên nho, nhất là lời chú
thích của Trình Di và Chu Hy, thì trong một quẻ, hào Đầu là ngôi thứ dân, hào
Hai là ngôi tư mục, hào Ba là ngôi quan Khanh, quan Đại phu, hào
Tư là ngôi đại thần, hào Năm là ngôi vua, hào Trên là ngôi các vị lão thành.
Đây cũng là nói đại khái mà thôi, không phải các quẻ đều đúng lệ đó.
Tất cả các ngôi, đều có nhiều
hạng tương phản với nhau, ví như chính và không chính, giữa và không giữa, có
ứng và không ứng. Hào Dương mà ở ngôi lẻ, tức là ngôi Đậu, ngôi Ba, ngôi Năm;
hào Âm mà ở ngôi chẵn tức là ngôi Hai, ngôi Tư, ngôi Trên, thế là được chỗ
chính; trái lại, nếu hào Dương mà ở ngôi chằn, hào Âm mà ở ngôi lẻ thì là bất
chính. Trong mỗi quẻ, chỉ có hào Hai, hào Năm là giữa, vì một quẻ kép do hai
quẻ đơn hợp lại, mà hào Hai là giữa quẻ (đơn) dưới, hào Năm thì ở giữa quẻ
(đơn) trên. Còn cốc hào khác đều là không giữa.
Ứng là hào nọ ứng với hào kia, như làm
ngoại viện cho nhau. Trong một quẻ (kép), hào Đầu ứng với hào Tư, hào Hai ứng
với hào Năm, hào Ba ứng với hào Trên, thường lệ như thế. Nhưng phải một hào là
Dương, một hào là Âm mói là có ứng. Nếu hai hào cùng một loại, ví như hào Đầu
là hào Dương, hào Tư cũng là hào Dương, hào Hai là hào Âm, hào Năm cũng là hào
Âm... thì không tương ứng. Vậy nói “chính giữa có ứng” tức là hào Âm ở ngôi Hai
mà trên ngôi Năm là hào Dương, hay hào Dương ở ngôi Năm mà dưói ngôi Hai là hào
Âm.
Trên đây là lệ nhất định.
Người là bản thân kẻ xem bói, nói
rộng ra thì là bản thân kẻ ở địa vị nào, trong thời kỳ nào, ví như hào Đầu quẻ
Bĩ tức là thứ dân trong đời bĩ tắc, hào Năm quẻ Thái thì ông vua trong đời hành
thái v.v... Người có hai dạng quân tử và tiểu nhân, hay là đàn ông và đàn bà.
Tiên nho cho rằng: Hào Dương là quân tử hay đàn ông, hào Âm là tiểu nhân hay
đàn bà. Hào Dương ở ngôi Dương, tức là quân tử được ngôi, hào Âm ở ngôi
chẵn, tức là tiểu nhân biết điều, trái lại, hào Dương ở ngôi chẵn, thì là quân
tử không ngôi, hào Âm ở ngôi lẻ, thì là tiểu nhân càn bậy. Lệ này cũng là thuộc
về phần nhiều, không phải hết thảy như thế.
Tượng và Chiêm - Theo ý Chu Hy, một
hào thường làm hai thứ, là Tượng và Chiêm. Tượng là hình tượng. Chiêm là lời
đoán. Ví như hào Chín Đầu của quẻ Kiền có câu: “rồng lặn chớ dùng”, thì “rồng lặn”
là tượng, vì Kiền là tượng con rồng, mà ngôi Đầu là chỗ rất thấp, tức là tượng
của sự lặn; “chớ dùng” là Chiêm, vì nó là lời khuyên bảo người ta. Tượng thì
tùy quẻ tùy hào mà hình dung ra, không có nhất định. Còn Chiêm đại để chia làm
hai loại, hay dở. về mặt hay, hay nhất là nguyên cát (cả tốt) đến cát hanh (tốt
và hanh thông), đến cát (tốt), đến hanh (hanh thông), đến lợi (lợi về sự gi), đến
vổ hôi (không ăn năn), đến vô cữu (không lỗi); về mặt dở, dở nhất
là hung (dữ), đến lệ (nguy), đến vô du lợi (không lợi về sự gì), đến lận (đáng
thẹn tiếc), đến hữu cữu (có lỗi), đêh hữu hối (có ăn năn). Đem tính chất của lời
Chiêm mà phân tích ra, thì thấy nặng nhẹ khác
nhau như vậy. Trong sáu tư quẻ, ba trăm tám mươi tư hào, nhiều hào có Tượng mà
không có Chiêm, củng nhiều hào mà có Chiêm mà không có Tượng, không phải hào
nào cũng đủ cả hai thứ đó.
3 - VÀI LỜI PHÂN GIẢI VỀ VIỆC
DỊCH
1) Kinh Dịch là một pho sách rất cổ trong triết học sử Á Đông. Từ
đời nhật Hán mà đi, đến đời nhà Thanh, kể có hàng trăm học giả
chú thích. Mỗi nhà chú thích tất nhiên phải có một bộ sách riêng. Học thức hẹp
hòi như Dịch giả, củng đã biết tên được vài chục bộ, lấy trí tưởng tượng mà
đoán, số sách chú thích của các nhà Dịch học, ít ra cũng phải có hàng trăm bộ.
Nguyên văn bản Địch này là bộ Chu Dịch đại toàn của bọn Hồ Quảng và Kim Âu Tư
vâng mệnh Thành tổ nhà Minh mà soạn ra, nội dung gom góp hầu khắp các lời chú
giải của Tiên nho. Trong các Kinh Dịch lưu hành từ trước đến giờ, bộ này đầy đủ
hơn hết. Điều đáng nói là trong bộ Chu Dịch đại toàn, soạn giả lấy hai cuốn
Dịch truyện của Trình Di và Chu Dịch bản nghĩa của Chu Hy làm phần chính, còn
lời chú giải của các học giả khác chỉ là phần phụ mà thôi. Họ Trình họ Chu là
hai cự phách trong Tống nho, sự khảo cứu của các ông ấy không khỏi có chỗ vũ
đoán và khiên cưỡng, như vậy, thì chữ “đầy đủ” trên kia, chỉ nói được về phần
lượng, không nói được về phần phẩm, nghĩa là bộ sách ấy chi là sách dầy, không
phải là sách chú giải thật đúng. Song thế nào là đúng? Thê nào là không đúng?
Đối với chính văn Kinh Dịch, những câu hỏi đó, có lẽ loài người tiêu diệt vẫn
chưa giải quyết. Thế thì muốn biết Kinh Dịch một cách uyên bác, thà đọc Chu
Dịch đại toàn còn hơn. Vì vậy Dịch giả mới chọn bộ này mà Dịch.
2) Trong bộ Chu Dịch đại toàn, Trình Di và Chu Hy là hai tay trọng
yếu trong phần chú giải, nhưng mà không phải hết thảy từ đầu đến cuối, hai
người đều chung một ý với nhau. Trái lại, có chỗ họ Trình bảo là thê này, họ
Chu lại cho là thế kia, có chỗ họ Chu công nhiên phản đối ý của họ Trình là
khác. Như thế, thì việc phiên Dịch kinh văn cũng hơi rắc rối, là vì không biết
theo ai, theo họ Trình hay theo họ Chu? Gặp những trường hợp ấy,
Dịch giả phải tự đặt một cái lệ, là lấy văn pháp chữ Nho làm bằng, hễ lời chua
của ai họp văn pháp chữ Nho hơn thì lời Dịch theo ý của nây, bất kỳ của họ Chu
hay của họ Trinh. Còn chỗ nào hai nhà độc giả đó đã không
đồng ý mà một nhà độc giả khác lại có ý kiến lạ hơn, thì cũng trích vào làm
“Lời bàn của tiên nho” cho rộng rãi thêm. Nhưng dù theo, dù
không theo, Dịch giả chỉ căn cứ ở văn pháp chữ Nho, chứ không hề cho thế này là
đúng, thế kia là sai.
3) Trong bản Dịch này, những chỗ
Dịch các lời kinh, nhiều khi dùng những tiếng cổ, ví như tiếng
“thửa” tiếng “chưng”, tiếng “hay”, tiếng “khá” v.v... chữ nào nghĩa ấy, như lời
kể nghĩa sách học trò chữ Nho ngày xưa. Đọc những chỗ ây, độc giả chắc phải cho
là gàn. Dịch giả cũng tự thấy thế là bướng, có lẽ những kẻ không ưa, sẽ dùng
chỗ đó làm cớ công kích người Dịch cũng nên. Song Dịch giả không phải là không
thể tìm được đủ tiếng để đặt cho câu văn Dịch được êm tai. Sở dĩ Dịch vậy, là
vì một lẽ sau đây:
Từ xưa đến nay, ai ai cũng tin
Kinh Dịch là một bộ sách khó hiểu. Sự thực cũng đúng như thế.
Nhưng cái khó hiểu của Kinh Dịch, không tại ý tứ sâu xa, chỉ tại lời văn chủng
chẳng ròi rã, ngớ ngẩn đột ngột, giống như lời nói của bọn đồng cốt, không đầu
đuôi, không mạch lạc, có chỗ lại không đúng với
văn pháp nữa. Ấy cũng vì thế mà
thường thường một câu có thể hiểu ra mấy nghĩa, rút lại vẫn không thể bảo nghĩa
nào là đúng, nghĩa nào là sai. Tinh thần của Kinh Dịch, một phần là ở chỗ đó.
Nay nếu đem những đoạn văn chủng chẳng rời rã, ngớ ngẩn đột ngột đó mà Dịch ra
những lời trôi chảy, dễ nghe, dễ hiểu thì là làm cho độc giả phải theo ý kiến
của mình, đó là mất tinh thần của Kinh Dịch. Dịch giả không muốn như thế. Vì
vậy trong các chính văn hết thảy Dịch bằng tiếng cổ của ta, cố giữ lấy cái tinh
thần “chủng chẳng rời rã, ngớ ngẩn đột ngột” của nó, để độc giả muốn hiểu thế
nào thì hiểu, bằng không hiểu nữa, thì đã có lời chú giải của Trình Di, Chu Hy
Dịch tiếp ở dưới, coi đó rồi cũng phải hiểu.
Có điều những tiếng cổ ấy, lâu
không ai dùng đến, đối với phần đông người, nghĩa nó hầu như đã mất. Vậy xin
chua qua mấy tiếng dưới đây, để độc giả khỏi mất thì giờ tra cứu
0 Comment:
Post a Comment