Cây sâm Việt Nam (Panax vietnamensis) nguồn tài nguyên đặc biệt quý hiếm trong chữa bệnh và trong phát triển kinh tế-Thực trạng và giải pháp
NGUYỄN BÁ HOẠT Phó Viện trưởng Viện Dược liệu
Hầu hết các loài
trong chi Panax L. Họ Araliaceae đều
được đánh giá là cây thuốc quý, giá trị kinh tế cao: 4 loài trong chi này đã
được nghiên cứu kỹ về hoá học, dược lý lâm sàng và bào chế ra nhiều dạng thuốc
phục vụ phòng chữa bệnh, đã và đang được phát triển lớn mang lại nguồn thu hàng
trăm triệu đô la/năm cho mỗi quốc gia như: sâm Triều Tiên (Panax ginseng); sâm Mỹ (P. qiuquefolius); sâm Nhật (Panax
japonicus) và tam thất (Panax pseudoginseng).
Năm 1973, lần đầu tiên
phát hiện cây sâm Việt Nam ở núi Ngọc Linh - Kon Tum. Nhiều công trình nghiên
cứu về hoá học, dược lý, lâm sàng xác định sâm Việt Nam có giá trị chữa bệnh
không thua kém 4 loài sâm trên. Đây là tài nguyên quý về giá trị y tế, đồng
thời là đối tượng rất quý cho phát triển kinh tế trên địa bàn vùng cao, vùng
sâu, vùng kinh tế đang rất khó khăn của Tầy Nguyên cần phải có thái độ, chính
sách thích đáng và kịp thời nhằm nhanh chóng phát triển nguồn tài nguyên này.
I. CÂY SÂM VIỆT NAM (PANAX
VIETNAMENSIS) ĐÃ ĐƯỢC XÁC MINH GIÁ TRỊ ĐẶC BIỆT QUÝ TRONG PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH
1. Xác định thành phần hoá học trong sâm Việt Nam
Nhiều tác giả nghiên
cứu thành phần hoá học của cây sâm Việt Nam đã công bố trên nhiều tạp chí chuyên ngành trong và ngoài nước,
4 luận văn tiến sĩ nghiên cứu về thành phần hoá học sâm Việt Nam được bảo vệ ở
Ba Lan (2); ở Nhật Bản (2). Từ sâm Việt Nam đã phân lập được 49 saponin, xác
định câu trúc 25 saponin và xác định hàm lượng những saponin quan trọng quyết
định giá trị của nhân sâm như: ginsenosid Rbl chiếm 2%; ginsenosid
Rgl chiếm 1,4%; ginsenosid Rd chiếm 0,87%. Đã xác định hàm lượng
saponin toàn phần (quyết định phẩm chất nhân sâm) đạt 12-15% trong đó saponin
damaran kiểu ocotillol chiếm hơn 50% saponin toàn phần.
Đã xác định hợp chất
đặc trưng của sâm Việt Nam là majonoside R2 có hàm lượng gấp 42 lần sâm Nhật (Panax japonicus var. major).
Hợp chất này trong nhân sâm,
sâm Mỹ và tam thất không có. Majonoside R2 là một khác biệt lý thú
quyết định một số tác dụng dược lý đặc
hữu của sâm Việt Nam và đang trở thành mục tiêu nghiên cứu của các nhà khoa học
trong và ngoài nước.
Từ sâm Việt Nam đã
phân lập và xác định cấu trúc của 7 hợp chất
polyacetylen, trong đó 2 hợp chất chủ yếu là
panaxynol có hàm lượng 0,0084% và heptadecad có hàm lượng 0,0028%. Hai hợp chât
này có trong thành phần của sâm Triều Tiên và đã được chứng minh có tác dụng
kháng ung thư. Từ sâm Việt Nam đã xác định được 17 acid béo với hàm lượng
0,53%, trong đó acid linderic và acid limodinic đã được chứng minh có tác dụng
chông lão hoá tế bào (antioxydant).
2. Đánh giá phẩm chất sâm Việt Nam qua kết quả nghiên cứu được lý thực nghiệm
Đã có nhiều công
trình nghiên cứu tác dụng dược lý của sâm Việt Nam đăng trên các tạp chí chuyên
ngành trong và ngoài nước. Các công trình nghiên cứu của nghiên cứu sinh Việt
Nam tại trường Đại học Y - Dược Toyama và Đại học
Hirosima Nhật Bản đều khẳng định sâm Việt Nam có tác dụng tăng lực, tăng cường
hoạt động não bộ và sinh dục, tác dụng sinh thích nghi, tác dụng phòng chống
phóng xạ, tác dụng kháng viêm và giảm đau, tác dụng hiệp lực với thuốc hạ đường
huyết và hạ cholesterol máu, tác dụng kháng khuẩn đặc biệt trên chủng Streptococcus
gây viêm họng. Tác dụng bảo vệ tế
bào gan và gia tăng hàm lượng cytochrom P450 trong vi thể gan. Đặc biệt sâm
Việt Nam có tác dụng hồi phục các rốì loạn bệnh lý gây bởi stress tâm lý. Như
vậy những tác dụng dược lý tiêu biểu của sâm Triều Tiên đã được chứng minh đều
có ở sâm Việt Nam tác dụng kháng khuẩn trên bệnh viêm họng, tác dụng antistress
tâm lý là những tác dụng đặc hữu của sâm Việt Nam.
Tác dụng dược lý sâm
Việt Nam đã được xác minh qua kết quả nghiên cứu lâm sàng thực nghiệm của một
số chế phẩm như tinh sâm, viên ngậm... tại Viện Lão khoa Hà Nội, Quân y viện
175 TP. Hồ Chí Minh, Viện điều dưỡng PT. Hồ Chí Minh.
Những kết quả nghiên
cứu cơ bản này khẳng định vị trí cây sâm Việt Nam sánh ngang với sâm Triều Tiên
- một cây thuốc được coi là “thần dược” của thế giới. Các nước Nga, Mỹ, Nhật,
Trung Quốc, Triều Tiên đều có viện chuyên nghiên cứu về cây sâm (Panax ginseng) tiếp tục khám phá những
giá trị cao quý của cây thuốc này
II. HIỆN TRẠNG CÂY SÂM VIỆT NAM, NHỮNG TỒN TẠI CẦN SỚM ĐƯỢC KHẮC PHỤC
Năm 1973 trong khói
lửa của chiến tranh, đoàn điều tra dược liệu khu 5 dưới sự lãnh đạo của DS. Đào
Kim Long lần đầu tiên đã phát hiện ra một loại sâm (Panax) mọc hoang với mật độ dày đặc trong một vùng phân bố hẹp ở độ
cao 2.200m thuộc núi Ngọc Linh huyện Đakto tỉnh Kom Tum. Đoàn thu mẫu thực vật
và dược liệu sơ bộ xác định là Trúc tiết nhân sâm Panax articulatus L. và gửi mẫu dược liệu ra miền bắc xác định chất
lượng. DS Nguyễn Thơi Nhâm nhận được nguyên liệu đã đưa phân tích đánh giá tại
Viện Dược Liệu Hà Nội và viện cây thuốc Poznan Ba Lan. Kết quả ban đầu về hoá
học cây sâm Việt Nam hoàn toàn giống sâm Triều Tiên do đó DS Nguyễn Thơi Nhâm
đề nghị tên sâm Việt Nam là Panax ginseng
var. K5. Đến năm 1988 GS. Gruvesky và Hà Thị Dung xác định đây là loài mới của khoa học, đặt
tên Panax vietnamesis khẳng định một
loài đặc hữu của Việt Nam trong chi Panax
họ Araliaceae. Nhận thức được giá trị của cây sâm Việt Nam nên ngày 14/3/1978 Bộ
Y tế đã ra quyết định tổ chức đơn vị nghiên cứu sâm trực thuộc Trường đại học Y
Dược thành phố Hồ Chí Minh, đến năm
1985 đổi tên thành Trung tâm nghiên cứu sâm Việt Nam. Năm 1992 sát nhập với
phân viện dược liệu, Trung tâm nghiên cứu sâm đổi tên thành Liên hiệp khoa học
và sản xuất sâm Việt Nam.
Năm 1997 chuyển sang trực thuộc Viện Dược liệu và đổi tên thành Trung tâm
nghiên cứu sâm và dược liệu
TP. Hồ Chí Minh. Sự phát triển gắn liền với các công trình nghiên cứu khá
toàn diện cây sâm Việt Nam.
Sau khi giải phóng
miền Nam năm 1976 sở y tế Gia Lai - Kon Tum được UBND tỉnh đồng ý đã tổ chức
công ty Dược liệu Ngọc Linh nhằm bảo vệ và phát triển cây Sâm Việt Nam dưới tán
rừng tại các vùng phân bố tập chung. Đồng thời tổ chức trồng thâm canh trên
đồng ruộng ở độ cao 1.200m. Sau năm 1990 do chuyển đổi tổ chức dẫn tới công ty
giải thể kéo theo cây sâm ở Kon Tum bị khai thác kiệt quệ, đứng trước nguy cơ
tuyệt chủng. Từ 1995 trở lại đây Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường Kon Tum
nỗ lực khôi phục và phát triển nhưng tiến triển rất chậm.
Vùng phân bố cây sâm
Việt Nam tới 3 xã vùng cao của huyện Trà My, năm 1978 Trạm dược liệu Quảng Nam
Đà Nẵng tổ chức Trạm bảo vệ và phát triển cây sâm Việt Nam
tại xã Trà Linh huyện Trà My. Sau khi trạm dược liệu giải thể Trạm trồng sâm
Trà Linh vẫn được giữ lại, trực thuộc Công ty Dược liệu Quảng Nam Đà Nấng.
Nhưng năm 1988 - 1992 cây sâm của Quảng Nam đứng trước nguy cơ bị khai thác kiệt,
Trại trồng sâm có nguy cơ bị giải tán. Khi tách tỉnh sở Y tế Quảng Nam đã quyết
tâm bảo tồn trại trồng sâm để có cơ sở khôi phục phát triển. Được UBND tỉnh ủng
hộ năm 1998 Sở Y tế đã tổ chức lại Trạm trồng sâm và đổi tên thành Trạm nuôi trồng và phát triển dược liệu Trà
Linh. Nhờ củng cố tổ chức tăng cường
cao nên cây sâm ở Quảng Nam đã được phục hồi và phát triển, sau 5 năm củng cố (1995 - 2000) nhất là 3 năm tổ chức
trạm nuôi trồng và phát triển dược liệu, vườn sâm ở Trà Linh Trà My Quảng Nam phát triển
cả về số lượng và chất lượng
cây trồng.
Thực trạng cây sâm
Việt Nam hiện nay có thể coi là thoát hiểm tuyệt chủng nhờ vườn sâm Trà My đang
giữ gần 30 vạn cá thể trên diện tích xấp xỉ 3ha dưới tán
rừng. Cây sâm được chăm sóc bảo vệ chu đáo, sinh trưởng phát triển tốt cung cấp
vài vạn hạt giống 1 năm. Ở Kon Tum cây sâm được
lưu giữ trên diện tích gần 1 ha nhưng cây sinh trưởng phát triển kém, dấu hiệu sâu bệnh phổ biến. Sở KHCN và MT Lâm Đồng đầu
tư nghiên cứu đánh giá nhập nội cây sâm Việt Nam. Kết quả bước đầu cây sâm sinh
trưởng và phát triển bình thường, đã có một số cây ra hoa kết quả, cây sâm Việt
Nam có triển vọng phát triển tại Lâm Đồng.
Trong khi cây sâm Việt
Nam còn trong tự nhiên là rất ít, cây sâm trồng
trong dân chưa thống kê được, trên thị trường giá củ sâm Việt Nam tăng nhanh từ
2,5 triệu đồng/ kg năm 1997 lên 5 triệu đồng/kg năm 2001 dẫn tới tình trạng
lùng sục khai thác sâm quyết liệt. Cây sâm ở Kon Tum đã trở thành “cây vàng”
như nhiều người nói, nguy cơ tuyệt chủng vẫn rình rập hàng ngày.
Từ thực tiễn nêu trên
chúng ta thấy vai trò của công
tác tổ chức đối với sự tồn vong của cây sâm Việt Nam là rất lớn. Trước thực trạng đang kêu cứu của cây sâm đặc hữu,
cần phải có giải pháp kịp thời nghiêm túc cả về tổ chức và đầu tư mới có thể
khôi phục.
III. NHỮNG ĐỀ NGHỊ VỀ GIẢI PHÁP NHẰM KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN CÂY SÂM VIỆT NAM
Cần phải trình Bộ
KHCN&MT, Bộ Kế hoạch Đầu tư duyệt cho một chương trình nghiên cứu phát
triển cây sâm Việt Nam, tạo vùng sản xuất hàng hoá gắn với chiến lược phát triển
kinh tế và bảo vệ môi trường vùng núi cao. Đây là chương trình khoa học - kinh
tế - xã hội thực thi trong thời gian 2 nhiệm kỳ 5 năm (10 năm) được chia ra 3
giai đoạn:
Giai đoạn 1: Xây dựng hệ thống vường giống hoàn thiện công nghệ
sản xuất giống và chuẩn hoá phẩm chất giống đi từ 2 phương thức: sản xuất giống
từ hạt và sản xuất giống invitro. Thời gian từ 3 đến 5 năm đầu yêu cầu phải sản
xuâ't được hàng triệu cây giống một năm đủ đáp ứng nhu cầu sản xuấk Mô hình
vườn giống quốc doanh của các lâm trường, trạm trại, vườn giống thôn bản, trang
trại
Giai đoạn 2: Xây dựng mô hình sản xuất, hoàn thiện kỹ thuật trồng
sâm bán tự nhiên và trồng thâm canh trên đất nương rẫy, tạo nên những vùng sản
xuất tập trung có sản lượng hàng hoá. Biện pháp kỹ thuật - kinh tế - xã hội
được vận dụng chặt chẽ trên cơ sở sản xuất trang trại hộ nông dân dưới sự quản
lý và bảo trợ của chính quyền xã, bản. Thời gian của giai đoạn 2 kéo dài 5 năm
định hình được một số mô hình để tổng kết nhân rộng.
Giai đoạn 3: Mở rộng mô hình sản xuất và tuyên truyền đào tạo kỹ
thuật cho nông dân; Tổng kết nhân rộng mô hình vườn giống sản xuất, trang trại
và nồng trại, hộ nông dân trồng sâm. Hoàn thiện các chế độ chính sách cho vùng
nguyên liệu cây đặc sản về tín dụng, chính sách đầu tư và thu mua nguyên liệu.
Saú 10 năm có thể
tổng kết đề án với những kết quả cụ thể về khoa học, tổ chức sản xuất, chế độ
chính sách và tạo được vùng nguyên liệu hàng hóá thực sự trên địa bàn vùng cao.
Thực tế đang đòi hỏi
chương trình khoa học công nghệ quốc gia sớm quyết định cho cây sâm Việt Nam
một đề án nhằm bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên đặc biệt quý của đất nước.
0 Comment:
Post a Comment