VẠN TUẾ
Tên khoa học:
Cycas revoluta Thunb.; Họ: Thiên tuế
(Cycadaceae).
Tên khác:
Tô thiết, tỵ hỏa tiêu.
Đặc điểm thực vật (Mô tả):
Cây cao 2 - 3m. Thân hình trụ, phủ đầy gốc cuống lá
đã rụng, không phân nhánh. Lá mọc rất sát nhau thành vòng ở ngọn thân, dài đến
1m hay hơn, hình lông chim, lá chét rất nhiều gần mọc đối, hình kim nhẵn, dài
15 - 18cm, rộng 6mm, nhỏ dần về phía gốc và gần ngọn, đầu rất nhọn, sắc, những
lá ở gốc đôi khi giảm thành gai.
Cây khác gốc, đực và cái riêng; nón đực hẹp, dài 28
cm, rộng 4cm, nhị thưa mang bao phấn dọc theo rhép; nón cái gồm những lá noãn
dài khoảng 20 cm, có lông màu trắng hơi vàng, có phần không sinh sản thành bản
rộng chia nhiều dải hẹp, nhọn và cong, noãn có lông.
Hạt dạng quả hạch, hình trái xoan dẹt, lúc đầu có
lông, sau nhẩn, màu da cam.
Phân bố, sinh thái:
Chi Cycas
L. được coi là nhóm thực vật có hạt cổ nhất còn tồn tại đến ngày nay. Theo K.
D. Hill và Stevenson, 1999, chi này hiện có 86 loài, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt
đới và cận nhiệt đới ở khắp các châu lục. Ở Việt Nam, theo Nguyễn Tiến Hiệp, K.
D. Hill và Phan Kế Lộc, 2000, hiện nay có 22 loài được định tên. Những kết quả
nghiên cứu mới này đã khẳng định Việt Nam là một trong những nước có nhiều loài
tuế mọc tập trung (Australia: 24 loài; Trung Quốc: 18 loài).
Vạn tuế được trồng lâu đời ở Nhật Bản, Trung Quốc và
Đông Ấn Độ. Ở Việt Nam, vạn tuế cũng được coi là cây trồng cổ trong các đình
chùa và những gia đình phong lưu thời phong kiến trước đây. Vài năm gần đây, bằng
cách gieo trồng tiên tiến, người ta đã tạo ra nhiều cây con, và từ đó vạn tuế
đã trở thành cây cảnh được trồng phổ biến hơn trong nhân dân.
Vạn tuế là cây đặc biệt ưa sáng, có thể chịu được
khô hại, nắng nóng về mùa hè. Lá non thường mọc ra khá tập trung vào khoảng giữa
mùa xuân; số lượng lá thưòng tăng dần theo tuổi cây và điều kiện chăm sóc. Vạn
tuế có cây ra nón đực, nón cái riêng; thụ phấn chủ yếu nhờ côn trùng. Quả (thực
chất là hạt) khá to, khi chín màu vàng; đem gieo sau 3 - 5 tháng mới nảy mầm.
Cây được gieo trồng từ hạt sinh trưởng rất chậm. Tuy vậy, vạn tuế vẫn là loại
cây cảnh phổ biến và có giá trị kinh tế cao.
Bộ phận dùng:
Hạt, lá, hoa và rễ (Semen, Folium, Conus et Radix
Cycatis Revolutae).
Thành phần hóa học:
Hạt vạn tuế chứa 2 acid amin phi protein là
cycasinden và cycasthioamid cùng với 8 acid aiĩiin khác, có cycasin,
rhamnobiosylmethylazomethan, laminaribiose.
Thân chứa tinh bột, trong đó hàm lượng amylose chiếm
24%.
Cây vạn tuế còn có neocycasin A, neocycasin B,
neocycasin c, neocycasin E, macrozamin.
Các chất cycasin (glucosyloxymethylazomethan) và
rhamnobiosyl methylazomethaa tỏ ra có ích trong sự ức chế các u ác tính phát
triển. Liều LD50 của cycasin là 0,51 mg/g, tiêm dưới da trên chuột
nhắt.
(Compendium of Indian medicinal plants, vol. I (1960
- 1969), 1999).
Tác dụng dược lý:
1. Tác dụng trên ung thư:
Cycasin có tác dụng chống ung thư và gây ung thư.
Khi uống, cycasin bị thủy phân thành genin có tác dụng gây uag thư. Nhưng trên
mô hình gây u báng Ehrlich cho chuột nhắt trắng, nếu tiêm cycasin dưới da lại
có tác dụng ức chế sự phát triển của u báng.
2. Độc tính của cycasin:
Đã xác định liều chết trung bình LD50 của
cycasin bằng đường uống. Thử trên chuột nhắt trắng, LD50 là 1670
mg/kg, trên chuột lang là 1000 mg/kg. Điều đó chứng tỏ cycasin có độc tính khá
mạnh.
3. Tác dụng
kháng thực khuẩn:
Trong một nghiên cứu sàng lọc tác dụng kháng thực
khuẩn của các cây thuốc ở Hy Lạp, 323 cao nước của 215 loài cây đã được nghiên
cứu tác dụng kháng thực khuẩn của 6 loài virus tiêu vi khuẩn là T4, T7, FX 174,
MS2 và FPs 7. Kết quả là 68 loại cao có tác dụng ít nhất trên 1 loại vừus. Cao
nước chiết từ lá vạn tuế có tác dụng trên T2 và T4. Nhưng nếu trong thử nghiệm,
cho thêm một protein vào (như canh thang của đậu nành hoặc huyết tương người)
thì tác dụng kháng thực khuẩn mất đi, có thể là do protein thêm vào làm mất hoạt
tính các hoạt chất có tác dụng.
Tính vị, công năng:
Vạn tuế có vị ngọt, nhạt, tính bình. Lá có vị ngọt,
hơi chua, tính ôn, có tiểu độc, vào kinh can, vị, có tác dụng thu liễm, chỉ huyết,
chỉ thống, giải độc. Hoa có tác dụng lý khí, chỉ thống, ích thận, cố tinh. Hạt
có vị đắng chát, tính bình, có độc, có tác dụng bình can, cố tinh, giáng huyết
áp, chỉ khái, trừ đàm. Rễ có tác dụng trừ phong, hoạt lạc, bổ thận.
Công dụng, liều dùng:
Lá vạn tuế được dùng trong các trường hợp có xuất
huyết như chảy máu cam, loét dạ dày tá tràng, kiết lỵ ra máu, mất kinh, đau dây
thần kinh và chữa ho. Gần đây, lá còn có tác dụng chữa cao huyết áp, ung thư gan
và các loại ung bướu. Ngày 20 - 40g, chặt nhỏ, phơi khô sắc uống, hoặc đốt tồn
tính, tán bột, uống. Dùng ngoài, lấy lá sao tồn tính, tán thành bột mịn, rắc
vào vết thương chém chặt, hoặc trộn với dầu vừng, bôi lên mụn nhọt, sưng tấy.
Hoa được dùng chữa đau thượng vị, di tinh, bạch đới,
đau kinh, với liều 3 - 6g/ngày, sắc uống. Hạt chữa cao huyết áp, ho đờm, hoạt
tinh, khí hư, ngày 9 - 12g sắc uống hoặc 4 - 8g nghiền thành bột uống. Rễ chữa
lao phổi, đau răng, đau thắt lưng, thấp khớp, thống phong. Ngày 10 - 15g, sắc uống.
Ruột cây vạn tuế thái miếng, phơi khô, bán ở phố Lãn
Ông - Hà Nội với tên là nam phục linh, được dùng thay vị phục linh. Cần chú ý
nghiên cứu.
Chú ý:
Hạt,
vỏ và ngọn thân cây vạn tuế có độc, khi dùng phải thận trọng.
0 Comment:
Post a Comment