RÂU MÈO
Tên khoa học:
Orthosiphon aristatus (Blume) Miq.; Họ
Bạc hà (Lamiaceae).
Tên đồng nghĩa:
Orthosiphon stamineus
Benth.
Tên khác:
Cây bông bạc.
Tên nước ngoài:
Orthosiphon, thé de Java, barbiflore, moustache de chat (Pháp).
Đặc điểm thực vật (Mô tả):
Cây thảo, sống lâu năm, cao 0,3 - 0,5 m, có khi hơn.
Thân mảnh cứng, hình vuông, mọc đứng, thường có màu nâu tím, nhẵn hoặc có ít
lông, ít phân cành. Lá mọc đối, hình trứng, dài 4 - 6 cm, rộng 2,5-4 cm, gốc
tròn, đầu nhọn, mép khía răng to, gân lá hơi nổi rõ ở mặt dưới; cuống lá dài
3-4 cm.
Cụm hoa mọc thẳng ở ngọn thân và đầu cành, dài 8-10
cm, gồm 6-10 vòng, mỗi vòng có 6 hoa màu trắng hoặc hơi tím; lá bắc nhỏ rụng sớm;
đài hình chuông có 5 răng, răng trên rộng, toẽ ra ngoài; tràng hình ống hẹp, thẳng
hoặc hơi cong, dài 2 cm, môi trên chia 3 thùy, môi dưới nguyên; nhị mọc thò ra
ngoài hoa, dài gấp 2 - 3 lần tràng, chỉ nhị mảnh, nhẵn; vòi nhụy dài hơn nhị.
Quả bế tư, nhỏ, nhẵn.
Mùa hoa quả : tháng 4-7.
Phân bố, sinh thái:
Chi Orthosiphon
Benth., có 40 loài trên thế giới, phân bố rải rác khắp các vùng nhiệt đới
châu Á, châu Phi và châu Đại Dương. Vùng nhiệt đới Đông Nam Á được coi là nơi tập
trung và có tính đa dạng cao về thành phần loài của chi, trong đó Việt Nam có 8
lài.
Râu mèo là cây nhiệt đới tương đối điển hình, mọc tự
nhiên phổ biến ở Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, các nước ở Đông Dương và
cả ở châu Phi. Cây còn được trồng ở Indonesia, Ân Độ, Thái Lan, Cu Ba và Việt
Nam.
Ở Việt Nam, râu mèo phân bố rải rác ở một số tỉnh miền
núi như Cao Bằng; Thanh Hoá (Vĩnh Lộc); Hà Nội (Ba Vì); Lâm Đồng, Phú Yên (Tuy
Hoà); Vũng Tàu - Côn Đảo (Bà Rịa); Ninh Thuận (Phan Rang); Kiên Giang (Phú Quốc).
... Cây ưa ẩm, ưa sáng và có thể hơi chịu bóng, thường mọc trên đất giàu chất mùn
ở ven rừng, gần bờ nước hoặc trong thung lũng. Độ cao phân bố của cây từ khoảng
10 m (ở Phú Yên) đến 600 m (ở Cao Bằng). Cây sinh trưởng mạnh trong mùa xuân
hè. Mùa đông có hiện tượng bán tàn lụi ở phần thân cành trên mặt đất. Cây ra
hoa quả nhiều hàng năm, tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt, nhưng tỷ lệ hạt nẩy mầm
thường rất thấp. Râu mèo tái sinh chồi khỏe, nhất là từ những phần còn lại sau
khi bị cắt.
Nguồn trữ lượng râu mèo tự nhiên ở Việt Nam không
đáng kể. Dược liệu râu mèo được sử dụng hiện nay chủ yếu do trồng trọt. Trên thế
giới, Indonesia là nước trồng nhiều râu mèo nhất. Ngoài khối lượng dược liệu sử
dụng nhiều trong nước, năm 1991 - 1995 nước này xuất khẩu sang thị trường châu
Âu mỗi năm từ 170 đến 200 tấn râu mèo khô (B. Dzulkarnain, Lucie Widowati et
al. in PROSEA - Med. & Pois. Pl., 12(1); 1999; 368 - 371).
Cách trồng:
Râu mèo thích hợp với mọi loại đất, ưa khí hậu nóng,
ẩm, sinh trưởng mạnh vào mùa hè và mùa thu, nhưng không chịu được úng.
Cây được trồng bằng thân cành vào tháng 2-3. Đất được
cày bừa kỹ, nhặt sạch cỏ, lên luống cao 20 - 25 cm, rộng 0,8 -1 m, bón lót một
lượng phân chuồng kết hợp NPK. Các đoạn thân cành có 3 - 4 mắt được trồng ở độ
sâu 5 - 7 cm với khoảng cách 30 x 30 hoặc 30 x 40 cm. Trồng xong, tưới ngay và
duy trì độ ẩm trong 1-2 tuần đầu đến khi cây mọc đều. Trong 1-2 tháng đầu, khi
cây chưa phủ kín luống, cần làm cỏ và tưới thúc 2 - 3 lần bằng nước giải hoặc
nước phân chuồng pha loãng. Sau mỗi lần thu hái, tỉa bớt thân cành và bón thúc.
Khi trời mưa to, tháo nước kịp thời.
Có thể thu 5-6 lứa trong mùa hè.
Bộ phận dùng:
Phần trên mặt đất (Herba Orthosiphonis), thu
hái khi cây chưa có hoa, phơi khô.
Thành phần hóa học:
Lá râu mèo chứa một saponin, một alkaloid, tinh dầu
0,2 - 0,6%, tanin, acid hữu cơ (acid tartric, acid citric và acid glycolic) và
dầu béo. Saponin khi thủy phân cho sapogenin và đường là arabinose và glucose
(hoặc fructose). Phần không xà phòng của dầu béo gồm β-sitosterol và α-amyrin.
Hoạt tính của lá do có hàm lượng kali caò (0,7 - 0,8%) và một glycosid đắng là
oưhosiphonin (The Wealth of India VII, 1966).
Lá khô và ngọn tươi có hoa chứa các chất vô cơ khoảng
12% với hàm lượng kali cao (600 - 700 mg/100g lá tươi), flavonoid (sinensetin,
3'-hydroxy-3, 6, 7, 4'-tetramethoxy isoflavon, tetramethylscutelarein), các dẫn
chất của acid cafeic (chủ yếu là acid rosmarinic, acid 2,3-dicafeoyltartaiic),
inositol, phytosterol (β-sitosterol), saponin, tinh dầu 0,7% (PROSEA 12 (1),
1999).
Theo Schmidt S. và cs., 1985, tinh dầu lá, cành và
thân chứa β-caryophylen, β-elemen humulen, β-bourbonen và l-octen-3-ol,
caryophyllen oxyd.
Cây râu mèo còn chứa methylripariochromen A,
orthosiphol A 16,75 mg%, carotenoid (α-caroten, β-caroten, neo β-caroten, 3 -
zeacaroten và cryptoxanthin).
Theo Takeda Yoshio và cs., 1993, cây râu mèo có
orthosiphol A, B, D, salvigenin và một số hợp chất khác.
Tác dụng dược lý:
Theo các tác giả Chow S. Y. Liao J. F (Đài Loan), dịch
chiết từ râu mèo trên chó thí nghiệm bằng đường tiêm truyền tĩnh mạch với liều
18,8 mg/kg/phút có tác dụng tăng cường bài tiết nước tiểu và các chất điện giải
Na+ K+ Cl+. Trên chuột nhắt trắng, râu mèo bằng
đường tiêm xoang bụng với liều 2 - 4g/kg làm giảm hoạt động vận động của chuột.
Trên chó, bằng đường tiêm tĩnh mạch với liều 0,179 g/kg có tác dụng hạ huyết áp
và làm giảm tần số hô hấp. Dịch chiết bằng cồn của râu mèo trên chuột nhắt trắng
bằng đường tiêm xoang bụng có LD50 =196 g/kg.
Các tác giả G. A. Schut và J. H. Zwaving (Hà Lan) đã
xác định tác dụng lợi tiểu của 2 flavon sinensetin và 3'-hydroxy-3,6,7,4'
tetramethoxyflavon của râu mèo. Thí nghiệm trên chuột nhất trắng, chất
3'-hydroxy-3,6,7,4' tetramethoxyflavon bằng đường tiêm tĩnh mạch với liều 10
mg/kg, lượng nước tiểu thu được sau 140 phút là 410mg, còn sinensetin dùng cùng
liều trên, lượng nước tiểu thu được sau 160 phút là 614 mg, trong khi đó ở lô
chuột đối chứng, sau 120 phút, không thu được một lượng nước tiểu nào. Hai
flavon trên dùng với liều 1 mg/kg có so sánh với tác dụng của
hydrochlorothiazid thấy tác dụng lợi tiểu yếu hơn và xuất hiện chậm. Đồng thời,
các tác giả cũng khẳng định 2 flavon trên với liều 10 mg/kg trên chuột cống trắng,
không thể hiện tác dụng lợi mật tuy trong y học cổ có ghi nhận là râu mèo có
tác dụng lợi mật. Xuất phát từ tác dụng điều trị viêm thận của râu mèo, 2 tác
giả trên đã tiến hành nghiên cứu tác dụng chống viêm và tác dụng kháng khuẩn của
các flavon chiết tách từ râu mèo. Kết quả cho thấy trên thí nghiệm gây viêm bằng
phương pháp cấy viên bông (cotton-pellet), sinenselin không thể hiện tác dụng
chống viêm, về tác dụng kháng khuẩn, đã nghiên cứu với các chủng Escherichia coli, Proteus mirabilis, Pseudomonas
aeruginosa, Staphylococcus aureus
và Enterococcus là những chủng có thể
gây nhiễm đường tiết niệu, kết quả cho thấy cả 3 flavon sinensetin,
tetramethylscutellarein và 3' - hydroxy -3, 6, 7, 4' tetramethoxyflavon đều
không có tác dụng kháng khuẩn với các chủng đã nêu.
Về dược lý lâm sàng, theo các tác giả Ấn Độ, râu mèo
rất có ích cho điều trị bệnh thận và phù thũng. Trên bệnh nhân, râu mèo có tác
dụng làm kiềm hóa máu, sự có mặt của hoạt chất orthosiphonin và muối kali trong
dược liệu có tác dụng giữ cho aeid uric và muối urat ở dạng hòa tan, do đó
phòng ngừa được sự lắng đọng của chúng để tạo thành sỏi thận, ở Thái Lan, thí
nghiệm trên những người tình nguyện khỏe mạnh, dịch chiết râu mèo có táe dụng
làm tăng sự bài tiết citrat và oxalat; Oxalat với hàm lượng cao có thể tăng
nguy cơ hình thành sỏi thận, sự bài tiết citrat được tăng cường giúp ngăn ngừa
sự hình thành sỏi thận.
Ngoài ra, dịch chiết lá râu mèo có tác dụng hạ đường
huyết ở những bệnh nhân tiểu đường, nhưng tác dụng này không hằng định, cơ chế
tác dụng có thể là do kích thích sự hình thành glycogen ở gan. Các chất
sinensetin và tetramethylscutellarein có tác dụng ức chế tế bào u báng Ehrlich.
Tính vị, công năng:
Râu mèo có vị ngọt, nhạt, hơi đắng, tính mát, có tác
dụng lợi tiểu, thanh nhiệt, trừ thấp.
Công dụng:
Theo kinh nghiệm dân gian, râu mèo được dùng làm thuốc
lợi tiểu trong điều trị bệnh viêm thận, sỏi thận, sỏi mật, tê thấp, phù thũng,
viêm gan. Tài liệu Ấn Độ coi dịch hãm lá râu mèo là thuốc điều trị đặc hiệu các
bệnh thận và bàng quang, ngoài ra còn dùng điều trị bệnh thấp khớp và bệnh gút.
Liều dùng:
5 - 12g lá hãm với nước sôi, chia làm 2 lần uống trước
khi ăn cơm 15-30 phút. Nên uống lúc dịch hãm còn nóng. Hoặc sắc nước uống. Thường
dùng liên tục 8 ngày, nghỉ 2 - 4 ngày lại tiếp tục nếu cần thiết. Có thể nấu
thành cao lỏng, mỗi ngày dùng 2-5g cao. Cao lỏng râu mèo được dùng làm thuốc hạ
đường huyết trong bệnh tiểu đường. Nếu dùng cả cây râu mèo thì liều lượng hàng
ngày là 30 - 40g, dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác.
Có tài liệu cho rằng khi cây râu mèo ra hoa phải ngắt
bỏ hoa vì hoa sẽ làm giảm lượng hoạt chất trong lá. Gần đây, một số bác sĩ Việt
Nam và Thụy Điển đã sử dụng râu mèo trên lâm sàng chọ bệnh nhân ở Bệnh viện Việt
Nam - Thụy Điển ở Uông Bí và thấy thuốc không làm tăng lượng nước tiểu bài tiết
trong vòng 12-24 giò và cũng không ảnh hưởng đến bài tiết Na+. Trong
trưòng hợp này, cần kiểm tra lại thời gian thu hái và chất lượng dược liệu.
Bài thuốc có râu mèo:
1. Chữa viêm thận mạn tính, viêm bàng quang, viêm khớp, phong thấp, viêm đường ruột:
Râu mèo 40g, tỳ giải và rễ ý dĩ mỗi vị 30g. sắc nước
uống.
2. Chữa đái rasỏi, đái ra máu và đái buốt:
Râu mèo 40g, thài là trắng 30g. sắc lấy nước, mỗi lần
hòa thêm 6g bột hoạt thạch uống trong ngày, chia làm 3 lần. Uống liền 5-7 ngày.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Viện Dược liệu (2004), “Cây thuốc và động vật làm thuốc Việt Nam”, tập II, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật
0 Comment:
Post a Comment