BA BA
Tên khoa học:
Trionyx sinensis
Wegmann; Họ Ba ba (Trionychidae).
Tên đồng nghĩa:
Amyda sinensis Stejneger
Tên khác:
Thuỷ ngư, cua đinh (miền nam).
Tên nước ngoài:
Tortoise (Anh), tortue de rivière (Pháp).
Mô tả:
Ba ba là một loài bò sát ba móng, sống ở nước ngọt các ao, hồ,
sông đầm. Các loại nhỏ, nhưng cũng có loại rất to, thân có thể dài đến 1m. Đầu
tròn có mõm nhọn, cổ dài trơn nhẵn, vươn dài hoặc thụt sâu dễ dàng. Trên lưng
có một mai rộng bản, hình khum, có khía dọc ở giữa, hằn lên những vết hình lục
giác mờ là những mảnh dẹt dạng vảy cứng như sừng, viền mép dẹt mỏng cấu tạo bởi
một chất sừng bóng có lớp da mềm phủ ngoài màu xám đen. Dưới bụng là một phiến
giáp phẳng không liền với mai. Có 4 chân, 2 chân trước dài, 2 chân sau ngắn, có
3 móng. Không có đuôi.
Loài ba ba gai (Trionyx
steindachneri Sieb.) sống ở miền núi đôi khi cũng được dùng.
Ba ba và vị thuốc Miết giáp
Phân bố sinh thái:
Ba ba có nguồn gốc rất xa xưa, phân bố ở các vùng nước ngọt
Đông Nam châu Á, Trung Quốc, Ấn Độ, châu Phi và Bắc Mỹ. Bơi nhanh, lặn được lâu
trong nước. Khi ở cạn, ba ba trở nên chậm chạp, vụng về. Chuyên ăn các động vật
nhỏ như giun đất, cá, tôm, ốc và thực vật thuỷ sinh. Đẻ trứng ở cát gần mé nước.
Ba ba được thu hoạch vào tháng 3 đến tháng 9, nhưng sản lượng
cao nhất vào tháng 5, tháng 7. Hiện nay, do nhu cầu tiêu thụ lớn, nên người ta
đã phát triển việc nuôi ba ba ở quy mô gia đình để tự túc thức ăn và cung cấp
cho các nhà hàng đặc sản.
Bộ phận dùng:
Mai ba ba, tên thuốc trong y học cổ truyền là miết giáp, thuỷ
ngư xác hay miết xác, là bộ phận dùng chủ yếu. Thịt, máu, mỡ, trứng ba ba cũng
được sử dụng.
Cách lấy mai ba ba:
Ba ba bắt về, cắt cổ
lấy tiết hứng ngay vào ít rượu, rồi cho cả con vào nồi nước sôi, đun trong 1- 2
giờ, vớt ra, gỡ lấy mai, để nguyên hoặc ngâm nước phèn một đêm (20g phèn cho Ikg mai), rồi cạo sạch
thịt và màng, phơi khô. Nếu lấy mai khi con vật còn sống thì tốt hơn (không
dùng mai đã cắt nhỏ nấu ăn).
Mai ba ba hình bầu dục, hay hình trứng rộng, trên dưới phẳng, dài 10-
20cm, rộng 8,5- 16,5cm, nhô dần lên ở phía giữa, mặt lưng màu xám đen hoặc lục
đen loang lổ, hơi sáng bóng, có nhiều vân nhăn. Mặt bụng màu trắng đục là một
khung gồm xương sống chạy dọc ở giữa, có 8 đốt, mỗi đốt mang hai xương sườn thẳng
hàng, uốn vào phía trong. Chất cứng chắc. Thứ mai to bản, dày chắc, không sót
thịt và màng là loại tốt.
Khi dùng, chế biến mai theo hai cách sau:
1. Ngâm mai vào nước gừng rồi phơi khô. Sao với cát nóng, hay nướng
chín đến khi mặt ngoài hơi vàng, lấy ra tẩm sơ qua với giấm (tỷ lệ 1,5 kg giấm
cho 5kg mai) rửa sạch, phơi khô. Bảo quản nơi khô ráo, tránh sâu mọt.
2. Nấu cao: Ngâm mai vào nước tro bếp (tro rơm rạ hay củi) trong một
đêm, lấy ra rửa sạch, tẩm rượu (có thể ngâm rượu gừng với tỷ lệ 50g gừng cho 1
lít rượu 40°) rồi cắt nhỏ, nấu với nước luôn sâm sấp và sôi liên tục trong một
ngày, một đêm. Chắt lấy nước thứ nhất. Thêm nước, tiếp tục nấu để được nước thứ
hai, thứ ba. Gộp các nước chắt lại, lọc kỹ, cô thành cao đặc ở nhiệt độ 70°C trở
lên (miết giáp cao). Cao tốt phải có hai lớp khi cắt ngang, lớp ttên có màu nâu
hơi vàng bóng, lớp dưới có màu nâu đen, mùi thơm, không tanh.
Thành phần hoá học:
Mai ba ba có keratin, chất đạm, vitamin D và iod.
Tính vị, công năng:
Theo các tài liệu cổ, mai ba ba có vị mặn, tính hàn, không độc vào 3
kinh can, phế và tỳ, có tác dụng bổ âm, ích khí, thanh nhiệt, tán kết, nhuận
táo, giảm đau, diều kinh. Thịt ba ba có vị ngọt, tính bình, có tác dụng bổ máu,
tăng cường sức khoẻ, làm se, cầm máu. Máu ba ba (tiết) làm tỉnh táo, phấn chấn.
Mỡ ba ba làm se.
Công dụng:
1. Mai ba ba: Được
dùng chữa hao gầy, đau lưng, nhức xương, lao lực quá độ, khí huyết ngưng trệ, mồ
hôi trộm, tiểu tiện ra sỏi, kinh nguyệt bế, sốt rét. Mai đã chế biến, tán bột,
rây mịn hoặc cao. Mỗi ngày uống 10-20 g bột hoặc 6-10g cao, chia làm hai lần.
Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác.
Người có máu hàn, tỳ hư tiêu chảy và phụ nữ có thai không được dùng.
Tuệ Tĩnh (Nam dược thần hiệu) đã dùng mai ba ba bôi
sữa, nướng vàng, tán bột, uống mỗi lần 4g với rượu hâm nóng chưa đau lưng. Hoặc
luộc ba ba (1 con) lấy thịt ăn,
dùng nước luộc rửa chỗ đau và lấy xương đầu con vật đốt tồn tính rồi rắc chữa lòi
dom.
Hải Thượng Lãn ông (Dược phẩm vậng yếu) lại dùng mai
ba ba trong những trường hợp sốt rét cơn, thịt thừa trong họng, ho lao, mụn nhọt,
bế kinh, rong huyết.
Theo kinh nghiệm dân gian, mai ba ba phơi khô, tán bột
cho vào thùng đựng gạo, có tác dụng diệt trừ các loại sâu, mọt.
2. Thịt ba ba: Nhân dân thường dùng thịt ba ba làm thức ăn bồi dưỡng
cho người tạng nhiệt, luôn nóng trong, mồ hôi ra nhiều dưới dạng nấu cháo hoặc
hầm nhừ. Thuốc thích hợp với người cao tuổi (chữa hư lao, ho khan, lưng gối đau
mỏi), nam giới (chữa thận yếu, rụng tóc, kiết lỵ), phụ nữ (chữa khí hư, rong
huyết, băng huyết), trẻ em (chữa cam gầy).
Phụ nữ đôi khi còn ăn thịt ba ba nấu với ngó sen để
chữa băng huyết, rong kinh hoặc với chân giò lợn, táo tàu làm thuốc tăng tiết sữa.
Dân gian cho rằng ăn thịt ba ba với kinh giới sẽ
sinh lở ngứa.
3. Máu
ba ba (Miết huyết): Pha rượu uống nóng làm
chóng phục hồi sức khoẻ ở người mới ốm dậy, chữa hoa mắt, choáng váng, khó thở,
bốc nhiệt, kém ăn, mệt mỏi. Máu ba ba ngâm với mật ong có thể trị bệnh đái đường,
hen suyễn, bệnh tim mạch, đường ruột, nhiễm lạnh.
4. Mỡ
ba ba (Miết cao): Đem rán thành dạng mỡ
nước được dùng bôi ngoài chữa bỏng, lở loét, vết thương, mụn nhọt, bệnh trĩ.
5. Trứng ba ha (Miết noãn): Lấy lòng đỏ gói lá chuối, nướng chửi hoặc
rán không mỡ, ăn chữa kiết lỵ mạn tính; dùng lòng trắng bôi trị bệnh trĩ.
Bài thuốc có ba ba
A- Dùng
ở Việt Nam
1. Chữa
trẻ nhỏ bị suyễn, thở gấp:
Mai ba ba đốt tồn tính, tán nhỏ, rây bột mịn; lá nhót
tươi (50g) rửa sạch, ép lấy nước dặc. Mỗi lần uống 4g bột mai với nước ép lá nhót
(Nam dược thần hiệu).
2. Chữa
sốt rét, thũng báng:
Mai ba ba (20g) thường sơn (40g), nga truật (20g),
tam lăng (20g), trần bì (20g), thanh bì (20g), ô mai (20g), bmh lang (20g), thảo
quả (20g), sa nhân (20g), bán hạ chế (20g). Tất cả thái nhỏ, ngâm với
1 lít rượu và 1 lít giấm trong 1
ngày đêm. Đun cho cạn hết dung dịch, phơi khô, sao giòn, tán nhỏ, rây bột mịn,
luyện với hồ làm viên bằng hạt đỗ xanh. Mỗi ngày, người lớn uống 30-40 viên làm
1 lần với nước ấm trước khi lên cơn khoảng 2 giờ. Trẻ em 5-10 tuổi, 10-20 viên;
11 tuổi trở lên, 20-30 viên (Kinh nghiệm của ông Từ Khắc Hàm, Nghệ An).
Hoặc mai ba ba (30g) tẩm giấm, nướng vàng làm 3 lần;
cành và lá cây cam thìa (100g) cắt nhỏ, phơi khô tẩm rượu, sao vàng; rễ hà thủ
ô trắng đã chế (50g); lá thường sơn (50g) tước bỏ cuống và sống lá, ngâm nước
vo gạo 2 ngày 2 đêm, mỗi ngày thay nước gạo 1 lần, thái nhỏ, tẩm rượu, sao
vàng; thảo quả sao cháy vỏ ngoài, lấy hạt (30g); vỏ chanh khô (30g); hạt cau
nhà hay cau rừng (30g); hậu phác (20g); cam thảo (20g) sao qua. Tất cả tán nhỏ,
rây bột mịn. Người lớn uống mỗi ngày 2 lần vào trước 2 bữa ăn 1 giờ, mỗi lần 4g
với nước đun sôi để nguội. Trẻ em tuỳ tuổi dùng liều thích hợp. Uống liên tục
trong khoảng 1 tháng.
3. Chữa kinh
nguyệt tắc do cơ thể suy nhược:
Mai ba
ba (30g) tán nhỏ, rây bột mịn, cho vào bụng một con chim bồ câu (đã làm thịt)
cùng với ít rượu và gia vị. Hấp cách thuỷ cho chín nhừ. Ăn hết làm 1 lần trong
ngày.
B-Dùng ở Trung Quốc:
1. Chữa xơ gan:
Mai ba
ba (30g), vảy tê tê (5g) cắt nhỏ, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần
trong ngày.
2. Thuốc dưỡng âm, bổ huyết, giảm mỡ, hạ
huyết áp:
Thịt
ba ba (50g, thái miếng), râu ngô (5g, rửa sạch), sơn tra (4g, bỏ hạt, thái mỏng),
táo đỏ (2 quả, bỏ hạt, cắt miếng), gừng (lg, cắt nhỏ), muối (1g), nước (150ml).
Nấu cho chín nhừ. Ăn cả cái lẫn nước (bỏ râu ngô). Cách 2 ngày, ăn 1 lần.
3. Chữa ho mạn tính, sốt nhẹ:
Ba ba
(1 con) làm sạch, bỏ mật, lấy thịt chặt nhỏ, cho vào xoong cùng với hoài sơn
(20g), long nhãn (20g). Hấp cách thuỷ cho thịt chín nhừ. Ăn làm 2-3 lần trong
ngày.
0 Comment:
Post a Comment